Bản án 173/2021/HNGĐ-ST ngày 15/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 173/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 15 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 899/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2021/QĐXX-ST ngày 23 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Lê Thị Kim T, sinh năm: 1985 (có mặt) Địa chỉ: ấp LT, xã LA, huyện CT, tỉnh Tiền Giang Chổ ở: ấp LB, xã LA, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

2/ Bị đơn: Nguyễn Văn N, sinh năm: 1977 (xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp LT, xã LA, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/12/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lê Thị Kim T trình bày:

Chị và anh N cưới nhau vào năm 2001, có đăng ký kết hôn vào năm 2004 tại UBND xã Long An, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Sau cưới anh chị chung sống với nhà nội anh N được 03 tháng thì ra riêng cất nhà ở cho đến nay. Anh N làm thuê không cố định chổ làm, chị làm cho công ty gần nhà, sau này đi làm ở Khu công nghiệp Tân Hương, gần đây chị đã làm cho công ty tư nhân ở Mỹ Tho.Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng năm 2016 thì vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do không thống nhất quan điểm nhau trong cuộc sống và vấn đề tiền bạc, chị dành dụm chơi hụi hốt để lo mua sắm cho gia đình, anh N lại không tin mà nói là chị “cho trai”, từ đó cãi nhau, mọi chuyện trong gia đình đều do chị lo toan mà anh N lại không tin tưởng và nghi ngờ chị nên vợ chồng hay cãi nhau, nhiều lần mà anh N vẫn không thay đổi suy nghĩ nên vợ chồng cãi nhau nhiều hơn, đến năm 2019 chị không thể tiếp tục chung sống nữa nên chị muốn về nhà cha mẹ ruột ở, các con không chịu đi cùng chị về ngoại nên chị đi một mình (nhà nội-ngoại cách nhau khoảng 1km). Từ ngày chị đi thì anh N có đến kêu chị về 2-3 lần nhưng chị không chịu về vì chị đã mệt mỏi với tính cách của anh N, sau đó anh N không có đến kêu hay điện thoại kêu về lần nào nữa nhưng mỗi lần chị điện thoại cho con là anh N chửi. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2019 đến nay, không có khả năng hàn gắn nên chị quyết định ly hôn.

-Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Lê Tường V, sinh ngày 02/5/2010 và Nguyễn Lê Bảo N1, sinh ngày 23/01/2012. Hiện hai con đang sống với anh N, ban ngày đi học bán trú, chiều ngoại rước về nhà ngoại ăn uống tắm rửa giặt quần áo, tối anh N rước về nhà học bài và ngủ, sáng đưa đi học. Chị đồng ý để anh N tiếp tục nuôi dưỡng 02 con, chị không cấp dưỡng vì thực tế có lo cho con thời gian ở nhà ngoại.

-Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

-Về nợ chung: Không có *Tại bản tự khai ngày 04/01/2021 bị đơn là anh Nguyễn Văn N trình bày:

Anh và chị Lê Thị Kim T cưới nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn vào năm 2004. Trong quá trình hôn nhân thì không có mâu thuẫn, khoảng hơn một năm nay thì chị T bỏ nhà đi, anh có nhiều lần tìm vợ hàn gắn nhưng vợ không đồng ý. Nay anh vẫn còn thương vợ và mong muốn vợ trở về hàn gắn để cùng lo cho con nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: anh và chị T có hai con chung như chị T trình bày. Nếu tòa cho chị T ly hôn thì anh yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết Về nợ chung: Không có Tại phiên tòa, chị T vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn, đồng ý để anh N nuôi dưỡng 02 con chị không cấp dưỡng, tài sản chung không yêu cầu giải quyết, nợ chung không có. Anh N có đơn xin vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đối với đương sự: nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị T được ly hôn với anh N. Về con chung, giao cho anh N được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung: không yêu cầu giải quyết; nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Kim T và anh Nguyễn Văn N cưới nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 16/7/2004 tại UBND xã Long An, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 192 quyển số 01, như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo chị T trình bày tại phiên tòa thì vợ chồng sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì có mâu thuẫn do không hòa hợp về tính cách, đến năm 2019 thì mâu thuẫn trầm trọng hơn do anh N không tin tưởng và hay nghi ngờ chị, vợ chồng cãi nhau thường xuyên mà không hòa giải được nên chị về nhà cha mẹ ruột ở, sống ly thân đến nay, thời gian đầu anh N còn đến kêu chị về, thấy chị cương quyết không về thì anh N không kêu nữa và có ý tránh mặt chị. Nay chị không còn tình cảm với anh N nên yêu cầu được ly hôn.

tòa.

Anh N không đồng ý ly hôn nhưng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt tại phiên Xét thấy, chị T và anh N đã có mâu thuẫn trong cuộc sống và sống ly thân nhau từ năm 2019, sau khi chị T xin ly hôn thì Tòa án có tiến hành hòa giải nhưng chị T vẫn cương quyết ly hôn, anh N không đồng ý ly hôn mà vắng mặt hai lần. Anh N muốn được đoàn tụ mà lại không có thiện chí, Tòa án triệu tập nhưng anh yêu cầu xét xử vắng mặt, điều này chứng tỏ anh đã cảm nhận được tình cảm vợ chồng không có khả năng hàn gắn, không đoàn tụ được nên để cho chị T tự quyết định.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau nhưng hiện giữa chị T với anh N không còn tình nghĩa vợ chồng, hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó nay chị T xin ly hôn với anh N là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: chị T và anh N có 02 con chung tên Nguyễn Lê Tường V, sinh ngày 02/5/2010 và Nguyễn Lê Bảo N1, sinh ngày 23/01/2012, hiện hai con đang sống với anh N. Chị T đồng ý để anh N tiếp tục nuôi dưỡng 02 con, chị không cấp dưỡng vì thực tế có lo cho con. Anh N cũng có ý kiến yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Xét, cháu V và cháu N1 đã trên 7 tuổi, các cháu có nguyện vọng ở với cha, anh N có nguyện vọng nuôi 02 con nếu ly hôn, chị T đồng ý. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, nơi sinh sống của con và nguyện vọng của con cũng như ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử cần giao cháu V và cháu N1 cho anh N tiếp tục nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con do anh N không yêu cầu.

[5] Về tài sản: chị T trình bày không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: chị T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Kim T được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

2. Về con chung: giao anh Nguyễn Văn N tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Lê Tường V, sinh ngày 02/5/2010 và Nguyễn Lê Bảo N1, sinh ngày 23/01/2012. Chị Lê Thị Kim T có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Kim T không phải cấp dưỡng nuôi con.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Kim T chịu là 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng tại biên lai số 0003758 ngày 21/12/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xem như đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: chị Lê Thị Kim T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn N có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 173/2021/HNGĐ-ST ngày 15/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:173/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;