Bản án 173/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 173/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/10/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 176/2020/TLST- HS ngày 12/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2020/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 10 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Họ tên: Nguyễn Văn T - Sinh năm1996; HKTT và chỗ ở: ĐY, XN, ĐA, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 9/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn N; Họ tên mẹ: Lê Thị H; Vợ: Hoàng Lê B; có 01 con, sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt tạm giam, tạm giữ từ 24/6/2020 (có mặt tại phiên tòa).

2. Họ tên: Đào Văn T1 - Sinh năm: 1992; HKTT và chỗ ở: ĐY, XN, ĐA, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 7/12; Họ tên cha: Đào Văn H; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H; Vợ: Lò Thị H, có 02 con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: 01 tiền sự ngoài thời hiệu vào năm 2013 về việc đưa vào cơ sở giao dục thời hạn 18 tháng về hành vi Cố ý gây thương tích. Bắt tạm giữ, tạm giam 24/6/2020 (có mặt tại phiên tòa).

3. Họ tên: Nguyễn Bảo N - Sinh năm 1996; HKTT và chỗ ở: ĐY, XN, ĐA, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn S; Họ tên mẹ: Nguyễn Hoa P; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt tạm giữ, tạm giam 23/6/2020 (có mặt tại phiên tòa).

4. Họ tên: Nguyễn Cảnh P - Sinh năm: 1997; HKTT và chỗ ở: Thôn HL 2, TL, ĐA, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 9/12; Họ tên cha:

Nguyễn Văn P; Họ tên mẹ: Nguyễn Kim D; Tiền án, tiền sự: Bản án số 27/2015/HSST ngày 31/3/2015, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 20 tháng về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính; về phần dân sự: Bị cáo P chưa bồi thường cho anh Phạm Văn T số tiền 2.816.000đ nhưng do lần trước phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên lần phạm tội này không tính tái phạm; Bắt tạm giữ, tạm giam 23/6/2020 (có mặt tại phiên tòa).

5. Họ tên: Nguyễn Văn Đ - Sinh năm: 1993 tại Hà Nội; HKTT và chỗ ở: Thôn HL 2, TL, ĐA, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 7/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn C; Họ tên mẹ: Trần Thị L; Vợ Đinh Thị H, có 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự:

+ Ngày 26/10/2010, Toà án nhân dân huyện Đông Anh tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội trộm cắp tài sản (đã xóa án tích).

+ Bản án số 281/2013/HSST ngày 25/12/2013, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh tuyên phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong án phạt tù ngày 14/5/2019 (chưa được xóa), lần này phạm tội là tái phạm.

Bắt tạm giữ, tạm giam 23/6/2020 (có mặt tại phiên tòa).

6. Họ tên: Phạm Văn Đ1 - Sinh năm1992 tại: Hà Nội; HKTT và chỗ ở: Thôn HL 2, TL, ĐA, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 9/12; Họ tên cha: Phạm Văn K; Họ tên mẹ: Đào Thị N; Vợ: Phạm Thị Thanh H, có 02 con sinh năm 2014 và 2016; Tiền án, tiền sự: Bản án số 70/2011/HHST ngày 26/4/2011VTòa án nhân dân huyện Đông Anh tuyên phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc (đã được xóa án tích); Bắt tạm giữ, tạm giam 23/6/2020 (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn T, sinh năm 1993; Nơi đăng ký HKTT, nơi ở: Thôn CM, xã TL, huyện ĐA, thành phố Hà Nội (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 22 giờ 10 phút ngày 22/6/2020, tổ công tác Công an xã TL, huyện ĐA tuần tra tại thôn ĐT, TL, ĐA phát hiện tại nhà quản trang thôn ĐT có các đối tượng Nguyễn Bảo N, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 và Nguyễn Văn Đ có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trên nền nhà quản trang tại vị trí N, P, Đ, Đ1 đang ngồi có: 01 đoạn ống nhựa, màu trắng được hàn kín hai đầu, kích thước (01x3,5) cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp; 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu hồng trên nắp có 02 ống nhựa, một đầu ống nhựa có gắn 01 ống thủy tinh hình trụ tròn, đường kính khoảng 01cm, dài khoảng 10cm đã qua sử dụng; 01 điện thoại Iphone, vỏ màu trắng – bạc, lắp sim số thuê bao 0565139912. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Văn Đ 01 điện thoại Iphone 7, lắp sim số thuê bao 0962344163 và 01 xe máy Honda Wave RS, màu xanh, BKS:

30P2 – 5558; 01 xe máy Honda Wave, màu đỏ, BKS: 98N9 - 0762 của Phạm Văn Đ1. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm P vật chứng, đưa Nguyễn Bảo N, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 và Nguyễn Văn Đ về trụ sở để tiếp tục điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 4963/KL – PC09 ngày 29/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng kích thước (01x3,5) cm là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,221gam; 01 (một) ống thủy tinh hình trụ tròn, đường kính 1cm, dài 10cm có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Bảo N, Nguyễn Cảnh P, Nguyễn Văn Đ và Phạm Văn Đ1 khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 22/6/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên N, P, Đ1 và Đ rủ nhau góp tiền mua ma túy “đá” về sử dụng. P góp 100.000 đồng, Đ1 góp 50.000 đồng, N góp 50.000 đồng và Đ góp 100.000 đồng. Sau đó, N mượn điện thoại Iphone 7, sim số thuê bao 0962344163 của Đ1 gọi đến số thuê bao 0967016428 của Nguyễn Văn T hỏi mua 300.000 đồng ma túy “đá”, T đồng ý. P mượn xe máy Honda Wave RS, BKS: 30P2- 5558 của Đ1 chở N đến khu vực cổng nhà T tại thôn ĐY,XN, ĐA. P đỗ xe máy cách cổng nhà T khoảng 10m, N xuống xe gọi điện thoại cho T đi ra cổng để giao dịch mua bán ma túy. N đưa qua khe cổng cho T 300.000 đồng, T cầm tiền và đưa lại cho N 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng, hàn kín hai đầu, kích thước (01x3,5) cm bên trong chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, N, P, Đ1, Đ cùng đi ra đường đê thôn ĐT, N đưa ống nhựa chứa ma túy đá cho Đ1, Đ1 đưa lại ống nhựa chứa ma túy đá cho Đ, Đ đưa cho P thêm 20.000 đồng mua ống hút, chai nhựa, bật lửa, keo nến để chế tạo bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. P tiếp tục điều khiển xe máy Honda Wave, BKS: 30P2- 5558 chở N đến thôn Hà Lâm 3, Thụy Lâm để mua. P, N quay lại gặp Đ1, Đ rồi cùng vào nhà quản trang thôn ĐT để sử dụng ma túy. Tại đây, P sử dụng vỏ chai nước, ống hút, keo nến và chiếc ống thủy tinh có sẵn tại nhà quản trang để chế tạo bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Đ lấy một ít ma túy đá trong ống nhựa hàn kín hai đầu, kích thước (01x3,5) cm cho vào ống thủy tinh rồi đặt ống nhựa chứa ma túy đá xuống nền nhà quản trang sau đó dùng bật lửa đốt phía dưới ống thủy tinh để chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng Công an xã TL, huyện ĐA kiểm tra phát hiện, thu giữ vật chứng và đưa về trụ sở làm rõ.

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 23/6/2020, tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy – Công an huyện Đông Anh làm nhiệm vụ tại khu vực thôn ĐT, TL, ĐA , Hà Nội. Khi đến khu vực nghĩa trang thôn ĐT phát hiện Trần Văn T (sinh năm 1993; HKTT: thôn CM, TL, ĐA, Hà Nội) và Hoàng Xuân G (sinh năm 1992; HKTT: thôn LG, VH, ĐA, Hà Nội) đang ngồi trong nhà quản trang có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy, tổ công tác tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện và tạm giữ tại vị trí T và G ngồi 01 túi nilon màu trắng, kích thước (1,5x2) cm đã qua sử dụng; 01 túi nilon, màu trắng kích thước (4x6)cm đã qua sử dụng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (gồm 01 chai nhựa trên nắp có gắn 02 đoạn ống nhựa màu xanh); 01 mảnh giấy bạc, kích thước (2,5x10)cm đã qua sử dụng và 01 bật lửa gas. Ngoài ra còn tạm giữ của Trần Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, vỏ màu xanh - đen, lắp sim số thuê bao 0966241892. T và G khai nhận vừa mới sử dụng ma túy xong thì bị kiểm tra. Tổ công tác đã lập biên bản, niêm P vật chứng, đưa T và G về trụ sở để điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 4986/KL – PC09 ngày 29/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: 02 túi nilon và 01 mảnh giấy bạc thu giữ của Trần Văn T và Hoàng Xuân G đều dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, T và G khai nhận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 23/6/2020, T và G ngồi uống nước với nhau tại khu vực ngã ba CK, xã XN, ĐA, Hà Nội, rồi rủ nhau cùng đi mua ma túy để sử dụng. T gọi điện đến sim số thuê bao 0968896861 của Đào Văn T1 ở thôn ĐY,XN, ĐA, Hà Nội hỏi mua ma túy của T, T đồng ý và nói đang ở nhà. T cùng G đi taxi đến đầu thôn ĐY,XN, ĐA, Hà Nội rồi đi bộ đến cổng nhà T. Tại đây, T đưa cho T 300.000 đồng, T cầm tiền và đi vào nhà rồi quay ra đưa cho T 01 túi nilon chứa ma túy “đá”. Thấy vậy, G hỏi T mua thêm 03 viên ma túy “ngựa” với giá 100.000 đồng/viên, T đồng ý. G đưa cho T 300.000 đồng, T cầm tiền đi vào nhà rồi đi ra đưa cho G 01 (một) túi nilon bên trong có 03 viên ma túy “ngựa”. Mua xong ma túy, T và G tiếp tục đi taxi đến nghĩa trang thôn ĐT, TL, ĐA , Hà Nội rồi đi bộ vào nhà quản trang để sử dụng ma túy, khi vừa sử dụng xong thì bị Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện.

Căn cứ tài liệu điều tra thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đông Anh đã ra lệnh khám xét khẩn cấp người, chỗ ở, đồ vật, tài liệu đối với Đào Văn T1 (sinh năm 1992; HKTT: ĐY,XN, ĐA, Hà Nội). Kết quả khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đào Văn T1 phát hiện, tạm giữ:

- Tại phòng ngủ của T: 03 (ba) viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy ngựa; 01 ví giả da bên trong có 5.000.000 đồng.

- Tại gian bếp nhà T: 01 (một) cân điện tử màu đen, kích thước (3x6x1) cm đã qua sử dụng; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế (gồm 01 chai nhựa trên nắp có gắn 01 ống hút bằng nhựa và 01 coóng thủy tinh); 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Masstel, màu đen, lắp sim số thuê bao: 0345309440.

Ngoài ra, còn phát hiện tạm giữ trên người Đào Văn T1 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Oppo, màu đen, lắp sim số thuê bao: 0968896861 và 465.000 đồng.

Cơ quan điều tra tiến hành niêm P vật chứng và đưa T về trụ sở để điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 4966/KL – PC09 ngày 29/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: 03 viên nén hình tròn màu hồng đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,298 gam; 01 coóng thủy tinh và 01 cân điện tử màu đen đều dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Đào Văn T1 khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 23/6/2020, T sử dụng điện thoại Oppo sim số thuê bao 0968896861 gọi đến số thuê bao 0967016428 của Nguyễn Văn T ở ĐY, XN thỏa thuận mua 200.000 đồng ma túy “đá” và 03 viên ma túy “ngựa” với giá 100.000 đồng/01 nhưng nợ tiền. T một mình đi đến cổng nhà T gọi điện cho T, T đi ra cổng và đưa cho T 01 túi nilon chứa ma túy “đá” và 03 viên ma túy “ngựa”, T mang số ma túy về nhà sử dụng một phần ma túy “đá”. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Trần Văn T hỏi mua 300.000 đồng tiền ma túy “đá”, T đồng ý và hẹn T đến cổng nhà T tại thôn ĐY, XN để giao ma túy. Khoảng 11h45’, T gọi điện cho T thông báo đã đến cổng, T đi ra thì thấy T đi cùng Hoàng Xuân G. T đưa cho T 300.000 đồng, T cầm tiền và vào nhà lấy 01 túi nilon chứa ma túy “đá” ra đưa cho T. Thấy vậy, G tiếp tục hỏi mua của T 03 (ba) viên ma túy “ngựa” với giá 100.000 đồng/viên và đưa cho T 300.000 đồng. T đồng ý, cầm tiền của G và đi vào nhà lấy 01túi nilon chứa 03 viên ma túy “ngựa” mang ra đưa cho G. Sau đó, T đi đến cổng nhà T gọi T ra trả 500.000 đồng tiền mua ma túy.

Đối với 03 viên ma túy “ngựa” của Đào Văn T1 bị Cơ quan điều tra tạm giữ khi khám xét, T trình bày mua của Nguyễn Văn T rồi cất giấu dưới đệm mục đích vừa sử dụng, vừa bán cho người khác, T không nhớ rõ mua của T vào thời gian nào.

Ngày 23/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đông Anh đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn T nhưng không phát hiện thu giữ gì; Khám người Nguyễn Văn T phát hiện và thu giữ: 01 điện thoại Masstel màu trắng – xanh, lắp sim số thuê bao: 0967016428; 01 điện thoại Iphone vỏ màu vàng, lắp sim số thuê bao: 0978920262 và 3.750.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 21h ngày 22/6/2020, T bán cho Nguyễn Bảo N 01 ống ma túy “đá” với giá 300.000 đồng. Đến khoảng 10h ngày 23/6/2020, T tiếp tục bán cho Đào Văn T1 500.000 đồng ma túy “đá” nhưng T chưa trả tiền. Về nguồn gốc ma túy T khai của một người đàn ông không quen biết ở khu vực cầu ĐT, quận LB, Hà Nội với giá 800.000 đồng.

Ngày 04/9/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành cho T và T đối chất nhưng 03 viên ma túy “ngựa” tạm giữ T không thừa nhận đã bán cho T.

Đối với Trần Văn T và Hoàng Xuân G mua ma túy của Đào Văn T1 để sử dụng, Cơ quan điều tra chỉ thu giữ được 02 (hai) vỏ túi nilon và 01 (một) mảnh giấy bạc có dính ma túy loại Methamphetamine, tài liệu điều tra không đủ chứng cứ buộc tội T và G. Tuy nhiên hành vi của T và G đã vi phạm các quy định về phòng, chống và kiểm soát ma túy. Ngày 11/9/2020, Công an huyện Đông Anh đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn T và Hoàng Xuân G.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave RS, màu xanh, BKS: 30P2- 5558, tạm giữ của Nguyễn Văn Đ, kết quả điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Đinh Thị H (sinh năm 1993; HKTT: Thôn HL 2, TL, ĐA, Hà Nội; vợ Đ1). Ngày 22/6/2020, Đ1 mượn xe của chị H lấy lý do để đi thăm bạn ốm, chị H không biết Đ1 giao xe cho N đi mua ma túy để sử dụng. Ngày 10/9/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy trên cho chị Đinh Thị H.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ, BKS: 98N9-0762, tạm giữ của Phạm Văn Đ1. Tra cứu chủ sở hữu theo BKS: 98N9-0762 xác định thông tin chủ sở hữu là ông Ngô Văn M (sinh năm 1966; HKTT: Thôn Xuân G, Mai Trung, Hiệp Hòa, Bắc G). Ông M trình bày mua và đăng ký chính chủ chiếc xe máy Yamaha Sirius, BKS: 98N9-0762 vào tháng 11/2007, đến tháng 10/2009 chiếc xe Yamaha Sirius, BKS: 98N9-0762 bị trộm cắp mất. Ông M đã trình báo Công an huyện HH, Bắc G nhưng vẫn chưa tìm được xe. Tra cứu chủ sở hữu theo số máy LC152FMY0587534, không có thông tin. Ngày 03/8/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận giám định: “Xe máy dán nhãn hiệu Honda Wave α, đeo biển kiểm soát: 98N9-0762 gửi giám định, hiện tại có số máy: LC152FMY0587534 là số nguyên thủy. Số khung bị han rỉ xác định được số khung nguyên thủy là LG5XCHLC8Y?...? (ký tự “?...?” không xác định được). Về nguồn gốc chiếc xe, Đ trình bày ngày 22/6/2020 mượn của vợ là chị Phạm Thị Thanh H (sinh năm 1996;

HKTT: Thôn HL 2, TL, ĐA, Hà Nội) để đi thăm người ốm. Chị H trình bày vào khoảng tháng 01/2020 Chị H đến cửa hàng sửa chữa xe máy “Chiến Motor” của anh Ngô Ích c (sinh năm 1988; HKTT: thôn HT, TL, ĐA, Hà Nội) tại Khu vườn ươm, thuộc thôn ĐY, XN, ĐA sửa chữa xe máy của mình thấy anh c sở hữu chiếc xe máy Honda Wave, màu đỏ, BKS: 98N9-0762, SM: LC152FMY0587534 nên đã thỏa thuận đổi về sử dụng. Khi đổi xe máy, anh c không đưa cho Chị H giấy đăng ký xe và cũng không viết giấy tờ thỏa thuận, không yêu cầu Chị H nộp thêm tiền. Anh Ngô Ích c trình bày vào khoảng tháng 06/2019, có 01 (một) nam thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch (từng đến cửa hàng của anh C để sửa xe) mang chiếc xe Honda Wave, màu đỏ, BKS: 98N9-0762, SM: LC152FMY058753 đến cửa hàng của anh C sửa chữa. Anh C sửa chiếc xe đến chiều muộn nhưng không hoàn thành, nam thanh niên trên vay anh c 500.000 đồng để về đưa người nhà đi viện và để lại chiếc xe cho anh C làm tin, hẹn ngày hôm sau sẽ quay lại trả tiền và lấy xe về, nếu trong vòng 01 tuần mà anh ta không quay lại anh C được quyền tùy ý định đoạt chiếc xe. Đến khoảng tháng 01/2020, nam thanh niên trên vẫn không quay lại lấy xe, anh C đã đổi chiếc xe Honda Wave, BKS: 98N9-0762 cho chị Phạm Thị Thanh H lấy chiếc xe máy khác. Do chưa xác định được chủ sở hữu, Cơ quan điều tra tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe máy Honda Wave, BKS: 98N9-0762, SM: LC152FMY0587534 để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 176/CT-VKSĐA ngày 08/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; bị cáo Đào Văn T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; các bị cáo Nguyễn Bảo N, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1, Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Các bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát; các bị cáo đều đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với cộng đồng.

Đ1 diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Văn T1 từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 30 - 36 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 từ 24 - 30 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo N từ 21 - 27 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung do các bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định.

Tịch thu sung công các tài sản thu giữ của các bị cáo; tịch thu tiêu hủy số ma túy và công cụ sử dụng đã thu giữ của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong quá trình điều tra vụ án nên có căn cứ xác định:

- Trong các ngày 22 và 23/6/2020, Nguyễn Văn T đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Đào Văn T1 và Nguyễn Bảo N tại ĐY, XN, ĐA, Hà Nội. Cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 21 giờ ngày 22/6/2020, Nguyễn Văn T bán trái phép 0,221gam ma túy loại Methamphetamin cho Nguyễn Bảo N.

Lần thứ hai: Khoảng 10 giờ ngày 23/6/2020, Nguyễn Văn T bán trái phép ma túy loại Methamphetamin cho Đào Văn T1 (1 túi ma túy “đá” và 03 viên ma túy “ngựa”).

- Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 23/6/2020, Đào Văn T1 có hành vi bán trái phép cho Trần Văn T 01 túi ma túy loại Methamphetamin với giá 300.000 đồng và cho Hoàng Xuân G 03 viên ma túy đá loại Methamphetamin với giá 300.000 đồng tại thôn ĐY,XN, ĐA, Hà Nội. Ngoài ra, T còn tàng trữ 0,298 gam ma túy loại Methamphetamin để sử dụng và bán kiếm lời - Khoảng 22 giờ 10 phút ngày 22/6/2020, Nguyễn Bảo N, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 và Nguyễn Văn Đ có hành vi Tàng trữ trái phép 0,221g ma túy loại Methamphetamin tại nghĩa trang thôn ĐT, TL, ĐA , Hà Nội, bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi của Nguyễn Văn T cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Hành vi của Đào Văn T1 cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Hành vi của Nguyễn Bảo N, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 và Nguyễn Văn Đ cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 251 BLHS quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên… c) Mua bán với 02 người trở lên….”.

Điều 249 BLHS quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nguyễn Văn Đ phạm tội lần này là tái phạm (quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự).

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nguyễn Văn T, Nguyễn Bảo N, Phạm Văn Đ1, Nguyễn Cảnh P, Nguyễn Văn Đ, Đào Văn T1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Nguyễn Bảo N có thời gian từ tháng 9/2014 đến tháng 7/2016 thực hiện nghĩa vụ quân sự tại Tiểu Đ 3, Lữ Đ 146, Vùng 4 Hải quân, Quân chủng Hải quân (đóng quân tại Trường Sa, Khánh Hòa); có ông nội là Nguyễn Văn Quỳnh được tặng Huân chương kháng chiến hạng Hai nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự - Đây là căn cứ giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự lẽ ra các bị cáo phải chịu.

Hình vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy do đó cần phải được xử lý nghiêm minh bằng pháp luật Hình sự - Tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng giáo dục cac bị cáo và phòng ngừa chung.

Các bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tài sản thu giữ của các bị cáo; tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy và công cụ sử dụng ma túy đã thu giữ của các bị cáo.

[5] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo đều có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T, Đào Văn T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

1.1 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày 24.06.2020.

1.2 Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Văn T1 7 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24.06.2020.

2. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 và Nguyễn Bảo N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.1 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23.06.2020.

2.2 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh P 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23.06.2020.

2.3 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ1 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23.06.2020.

2.4 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo N 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23.06.2020.

3. Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội:

3.1 Tich thu sung ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại Iphone, vỏ màu trắng-bạc, số Imei: 013735001313937, bên trong lắp sim số thuê bao 0565139912; 01chiếc điện thoại Iphone 7, vỏ màu đen , số Imei: 353824082799251, lắp sim số thuê bao: 0962344163 - 01 điện thoại nhãn hiệu Coolpad, vỏ màu xanh đen, số Imei 1: 864620040096174, số Imei 2: 864620040063943, lắp sim số thuê bao 0966241892.

- 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel, màu đen, lắp sim số thuê bao: 0345309440, số Imei 1: 358372049593859, số Imei 2: 358372049908859, 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo, màu đen, số Imei 1: 869347033822813, số Imei 2: 869347033822805, lắp sim số thuê bao: 0968896861.

- 01 điện thoại Mastel màu trắng xanh, số Imei 1: 353872084778534, số Imei 2: 353872084778542, số thuê bao: 0967016428; 01 điện thoại Iphone vỏ màu vàng, số Imei: 358366064776837, lắp sim số thuê bao: 0978920262.

- 9.215.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng10 năm 2020 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 26/10/2020 của Công an huyện Đông Anh).

3.2 Tịch thu tiêu hủy:

- 01 P bì niêm P (bên trong có 01 đoạn ống nhựa màu trắng, được hàn kín hai đầu kích thước (01x3,5) cm bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, 01 ống thủy tinh hình trụ tròn, đường kính khoảng 01cm, dài khoảng 10cm); 01 chai nhựa màu trắng nhãn hiệu “Đồng Phước” nắp chai màu hồng; 03 bật lửa ga; 01 đoạn keo nến dài khoản 25cm.

- 01 P bì niêm P (bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước (1,5x2)cm; 01 túi nilon, màu trắng kích thước (4x6)cm; 01 mảnh giấy bạc, kích thước (2,5x10) cm).

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (gồm 01 chai nhựa trên nắp có gắn đoạn ống nhựa màu xanh); 01 bật lửa ga.

- 01 P bì niêm P (bên trong có 03 viên nén hình tròn màu hồng; 01 cân điện tử màu đen, kích thước (3x6x1)cm, 01 coong thủy tinh).

- 01 chai nhựa trên nắp có gắn 01 ống hút bằng nhựa; 01 ví giả da.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng 10 năm 2020 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

3.3 Buộc các bị cáo Nguyễn Văn T, Đào Văn T1, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Cảnh P, Phạm Văn Đ1 và Nguyễn Bảo N - mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo đều có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản tống đạt án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 173/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:173/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;