Bản án 173/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 173/2020/HS-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 143/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên Phạm Minh C1, sinh năm: 1987, tại Kiên Giang Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: ấp 2, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Nơi cư trú: Thuê trọ tại Tổ 7, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: nam; Trình độ học vấn: 11/12; Đảng viên: không; Con ông Phạm Minh T (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Bị cáo sống như vợ chồng với bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1989 và có 01 con, sinh năm 2015.

Tiền án: Không Tiền sự: Không Bị bắt ngày 22/11/2019. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố B.

2. Họ và tên Lê Chí C, sinh năm: 1992, tại Cà Mau Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã K, huyện Trần Văn T, tỉnh Cà Mau.

Nơi cư trú: Thuê trọ tại khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: nam; Trình độ học vấn: 10/12; Đảng viên: không; Con ông Lê Văn T, sinh năm 1968 và bà Trần Hồng U, sinh năm 1970; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không Tiền sự: Không Bị bắt ngày 22/11/2019. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố B.

(Bị cáo C1, bị cáo C có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Minh C1 là người sử dụng trái phép chất ma túy. Để có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, C1 nảy sinh ý định mua bán trái phép chất ma túy. Khoảng 18 giờ ngày 18/11/2019, tại phòng trọ số 4-nhà không số thuộc tổ 7, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (nơi C1 thuê trọ), C1 mua của đối tượng tên H (không rõ lai lịch) 01 (Một) gói ma túy (ma túy tổng hợp), với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Sau đó, C1 chia thành 18 (mười tám) gói nhỏ và đã sử dụng hết 04 (bốn) gói ma túy, còn lại 14 (mười bốn) gói ma túy, C1 cất giấu để sử dụng và bán cho người nghiện. Cách thức: Khi cần mua ma túy, người nghiện đến phòng trọ của C1, C1 giao ma túy và nhận tiền. Cụ thể:

Khong 09 giờ 45 phút ngày 22/11/2019, Lê Chí C đến phòng trọ của C1 chơi. Tại đây, C1 nói cho C biết có ma túy bán và C1 bán cho C 03 (ba) gói ma túy, với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) nhưng cho C thiếu nợ tiền.

Vào lúc 10 giờ 00 phút cùng ngày, C cất giấu 03 (ba) gói ma túy trong túi quần trước bên trái C đang mặc với mục đích để sử dụng và đi bộ ra khỏi phòng trọ của C1 khoảng 200 mét đến khu bãi đất trống thuộc tổ 7, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Đến 10 giờ 15 phút cùng ngày, Công an phường T kiểm tra phòng trọ số 4 - Nhà không số thuộc tổ 7, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bắt giữ C1 đang cất giấu 11 (mười một) gói ma túy trên gác lửng phòng trọ với mục đích sử dụng và bán cho người nghiện.

Quá trình điều tra Phạm Minh C1 và Lê Chí C khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 03 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (kí hiệu M1), được thu giữ trong túi quần trước bên trái C đang mặc, đã niêm phong có chữ ký của Lê Chí C và dấu mộc của Công an phường T, thành phố B (Bút lục số 05 đến 08).

- 11 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (kí hiệu M2), được thu giữ trên gác lửng phòng trọ nơi C1 thuê trọ, đã niêm phong có chữ ký của Phạm Minh C1 và dấu mộc của Công an phường T, thành phố B (Bút lục số 01 đến 04).

Tại Kết luận giám định số 1509/KLGĐ-PC09 ngày 28/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,2419 gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,8547 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 159/CT-VKSBH ngày 13 tháng 3 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Phạm Minh C1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và bị cáo Lê Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Phạm Minh C1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” xử phạt bị cáo C1 từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Lê Chí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt bị cáo Lê Chí C từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về pháp luật áp dụng và xác định tội danh: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như cáo trạng mô tả. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

[3] Vào ngày 22/11/2019, tại phòng trọ số 4, nhà không số thuộc tổ 7, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Bị cáo Phạm Minh C1 đã có hành vi bán cho Lê Chí C 01 lần, 03 gói ma túy loại Methamphetamine, với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), còn lại 1,8547g ma túy, loại Methamphetamine bị cáo C1 cất giấu để bán thì bị thu giữ. Và cũng vào ngày 22/11/2019, tại tổ 7, khu phố L, phường T, thành phố B tỉnh Đồng Nai, bị cáo Lê Chí C có hành vi tàng trữ trái phép 0,2419 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị phát hiện bắt quả tang.

[4] Hành vi của bị cáo Phạm Minh C1 đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi của bị cáo Lê Chí C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo C1 đã bất chấp quy định của pháp luật thực hiện mua ma túy bán cho con nghiện. Bị cáo C thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Nên cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về các tình tiết tăng nặng: Không có.

[7] Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo C1, bị cáo C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự. Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 - Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Methamphetamine sau giám định theo gói niêm phong số 1509 ngày 28/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B.

[9] Đối với đối tượng tên H đã bán ma túy cho bị cáo C1, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[10] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc mỗi bị cáo C1, bị cáo C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Phạm Minh C1 phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Xử phạt bị cáo Phạm Minh C1 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2019.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lê Chí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Lê Chí C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 - Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Methamphetamine sau giám định theo gói niêm phong số 1509 ngày 28/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B.

4. Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc mỗi bị cáo C1, bị cáo C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ.

5. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 173/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:173/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;