Bản án 172/2020/HSST ngày 10/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 172/2020/HSST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 176/2020/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2020/QĐST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy H - sinh năm: 1982. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và cư trú tại: Ngõ Á, tổ B, phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Công nhân; Văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1958 và bà: Lê Thị Ph, sinh năm: 1959. Bị cáo có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất. Vợ: Trần Thị Thanh T, sinh năm: 1986; Con: có 3 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án: Không; Tiền sự: không - Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 14/8/2020 đến ngày 17/8/2020, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người hị hại: Nguyễn Như Tr, sinh năm: 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà H, đường TKi, tổ 7, phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Cổ Thu Th, sinh năm: 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 2A, đường HV, phường NQ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

2. Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1958 (vắng mặt)

3. Chị Trần Thị Thanh T, sinh năm: 1986 (Có mặt) Địa chỉ: Ngõ Á, tổ B, phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 11/8/2020, Nguyễn Duy H, sinh năm: 1982 trú tại Ngõ Á, tổ B, phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98B3- 302.80 đi đến khu vực chợ tạm Hồ Bắc, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang để mua thức ăn. Khi H đi đến trước một Hng bán hoa quả ở chợ thì thấy chị Nguyễn Như Tr, sinh năm 1985 trú tạị Số nhà H, đường TKi, tổ 7, phường TX, thành phố Bắc Giang đang đỗ xe mô tô trước quầy Hng bán hoa quả. H đỗ xe mô tô cạnh xe chị Tr, khi vẫn ngồi trên xe thì H quan sát thấy trong hốc để đồ phía trước xe mô tô của chị Tr có để một chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S8 có ốp nhựa màu đen. Thấy chị Tr đang mua hoa quả không để ý đến tài sản nên H đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại của chị Tr. H dùng tay phải lấy chiếc điện thoại, rồi chuyển điện thoại lấy được sang tay trái để cầm và lái xe mô tô bỏ đi ngay. Sau khi lấy được điện thoại, H đến một cửa hàng điện thoại trên đường Hùng Vương, thành phố Bắc Giang (H không nhớ tên cửa hàng) để phá mật khẩu của chiếc điện thoại trên. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, H mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại Ngọc T ở số 2A, đường HV, phường NQ, thành phố Bắc Giang, H nói với chị Cổ Thu Th là chủ cửa hàng đó là điện thoại của H và bán cho chị Th được 2.600.000 đồng. Sau đó, H mang số tiền trên về nhà và cất vào trong con lợn đất để tiền tiết kiệm của H. Ngày 14/8/2020, H đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang đầu thú, cơ quan điều tra đã tạm giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Hon da Wave màu xanh đen bạc, BKS 98B3-302.80, 01 đăng ký xe tên Nguyễn Văn Th, 01 điện thoại OPPO màu tím, 01 điện thoại di động Sam sung màu đen và số tiền 350.000 đồng. Cùng ngày chị Trần Thị Thanh T vợ H đã giao nộp cho cơ quan cảnh sát điều tra toàn bộ số tiền trong con lợn đất là 25.800.000 đồng, trong đó có 2.600.000 đồng H bán điện thoại trộm cắp. Ngày 16/9/2020, Nguyễn Duy H đã tự nguyện bồi thường cho chị Nguyễn Như Tr 01 điện thoại di động Iphone 7 trị giá 5.500.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 328/KL-HĐĐG ngày 17/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: “01 chiếc điện thoại di động Sam sung Galaxy S8 đã qua sử dụng có trị giá 3.000.000 (ba triệu) đồng; 01 ốp nhựa điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy S8 màu đen đã qua sử dụng trị giá 50.000 (năm mươi nghìn) đồng; 01 sim điện thoại số 0812354888 đã qua sử dụng có trị giá 25.000 (hai mươi lăm nghìn) đồng”.

Bản cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 22/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xác định đủ căn cứ chứng minh bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 điều 173, Điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung, xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (mười hai) tháng đến 16 (mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: do bị cáo đã khắc phục, bồi thường cho người bị hại và người bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

Về vật chứng: áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị trả lại cho bị cáo Nguyễn Duy H số tiền 26.150.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Ngoài ra, kiểm sát viên đề nghị về tuyên án phí, quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Duy H thừa nhận cáo trạng đã truy tố bị cáo đúng người, đúng tội, không oan, sai. Bị cáo khai đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai do buổi sáng ngày 11/8/2020, bị cáo đi ăn sáng và uống nhiều rượu nên sau đó không kiểm soát được hành vi, nảy sinh ý định trộm cắp và đã phạm tội. Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, không tranh luận gì, hiện gia đình khó khăn bố bị bệnh, con nhỏ, nên đề nghị HĐXX cho được hưởng mức hình phạt tù treo, cam kết không tái phạm.

Chị Trần Thị Thanh T trình bày, khi biết chồng phạm tội chị đã khuyên chồng ra đầu thú. Số tiền chị giao nộp cho cơ quan điều tra là tiền tiết kiệm của gia đình trong con lợn đất, trong đó có 2.600.000 đồng là tiền bị cáo H khai đã bán điện thoại có được, còn lại là tiền tiết kiệm của H, của chị. Đề nghị HĐXX xem xét trả cho H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. HĐXX đánh giá các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án là hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Nguyễn Duy H tại phiên tòa đã thừa nhận về hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố và hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Lời khai của bị cáo cũng phù hợp với lời khai của người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ xác định: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 11/8/2020, tại chợ tạm khu Hồ Bắc, phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chị Nguyễn Như Tr, bị cáo Nguyễn Duy H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy S8 có ốp nhựa màu đen, số sim 0812354888 của chị Tr. Tài sản bị cáo trộm cắp có trị giá là 3.075.000 (ba triệu không trăm bẩy mươi lăm nghìn) đồng theo kết luận định giá tài sản số 328/KL- HĐĐG ngày 17/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với lỗi cố ý, đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm vào trật tự an toàn xã hội. Hnh vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 của BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung. VKSND thành phố Bắc Giang truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là công nhân, có nhân thân tốt, trước khi phạm tội không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả đối với người bị hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm b, i, s khoản 1 điều 51 BLHS. Ngoài ra, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đầu thú nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 51 BLHS.

Từ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, HĐXX xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Duy H là phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS, có nơi cư trú rõ ràng, đã thực sự ăn năn, hối cải về hành vi của mình, xét đề xuất của kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, nên HĐXX quyết định cho bị cáo hưởng án treo theo quy định tại điều 65 BLHS để cải tạo, giáo dục tại địa phương là đủ.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích tư lợi, ngoài hình phạt chính lẽ ra áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự, tuy nhiên hiện nay bị cáo là công nhân, mức thu nhập thấp, bị cáo phải chăm sóc bố đẻ bị bệnh và nuôi ba con nhỏ nên hoàn cảnh gia đình khó khăn, HĐXX xét miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã mua 01 điện thoại di động trị giá 5.500.000 đồng trả cho người bị hại là chị Nguyễn Như Tr, chị Tr không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[6]. Về vật chứng: Căn cứ điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 26.150.000 đồng cơ quan điều tra đã thu giữ, có 2.600.000 đồng là tiền bị cáo bán điện thoại của chị Tr, còn lại là tiền của vợ chồng bị cáo. Xét thấy, bị cáo đã tự bỏ tiền ra mua một chiếc điện thoại khác trả chị Tr, đã khắc phục bồi thường cho người bị hại, nên HĐXX xét trả lại cho bị cáo toàn bộ số tiền trên, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 98B3 - 302.80 bị cáo sử dụng đi trộm cắp tài sản là tài sản của ông Nguyễn Văn Th bố đẻ bị cáo, khi bị cáo sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản ông Th không biết, nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý ông Th. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Th chiếc xe mô tô trên cùng 01 đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Văn Th là phù hợp quy đinh của pháp luật. Đối với 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu tím, 01 điện thoại di động Sam sung màu đen Nguyễn Duy H giao nộp khi đầu thú, cơ quan điều tra xác định không liên quan đến Hnh vi phạm tội của bị cáo và đã trả cho bị cáo, HĐXX xét thấy là đúng.

[7]. Đối với chị Cổ Thu Th là người mua chiếc điện thoại di động của bị cáo H trộm cắp, quá trình giao dịch chị Th không biết đó là tài sản bị cáo phạm tội trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xác định không có căn cứ xử lý chị Th về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hoàn toàn phù hợp.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9]. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Về điều luật, mức hình phạt áp dụng:

Căn cứ khoản 1 điều 173; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung. Khoản 2 điều 106; 135, 136; 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBNTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 10/11/2020. Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Giao bị cáo cho UBND phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp Hnh hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

3. Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo Nguyễn Duy H số tiền 26.150.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 172/2020/HSST ngày 10/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:172/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;