TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 17/11/2023 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 17/11/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 15/2023/TLST-HS ngày 20/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST-HS ngày 06/11/2023 đối với bị cáo:
Trần Văn L (tên gọi khác: Không); sinh năm 1987, tại: huyện B, tỉnh Hà Giang; CCCD số: 002087004xx cấp ngày 18/12/2021, nơi cấp: Cục CSQLHC về TTXH; nơi ĐK HKTT: Thôn V, xã Tân T, huyện B, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Tổ 04 thị trấn N, huyện M, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Kinh doanh – Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn T, sinh năm 1955 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1961; vợ: Hoàng Thị Thùy D, sinh năm 1996; con: 03 con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 09/6/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện M, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
- Bị hại: Vừ Thị H, sinh ngày 08/5/2007; địa chỉ: Thôn Q, xã P, huyện M, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Vừ Mí L, sinh năm 1983, địa chỉ:
Thôn Q, xã P, huyện M, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Hoàng Thị Ngọc M – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Giang. Có mặt.
- Những người làm chứng: Nguyễn Thế V (có mặt), Phạm Thị N (Vắng mặt không có lí do)
- Người phiên dịch tiếng Mông: Anh Giàng Mí L, sinh năm 2001; địa chỉ: thôn H, xã G, huyện M, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 25/5/2023 Vừ Thị H đến quán bia “Anh em” thuộc tổ 4, thị trấn N, huyện M do Trần Văn L và anh Nguyển Thế V, làm chủ để xin việc. Tại đây, H gặp L, sau khi nói chuyện thì L đồng ý nhận H vào làm việc tại quán của mình, công việc của H là dọn dẹp, bưng bê đồ ăn phục vụ cho khách, H sinh hoạt và ngủ nghỉ tại quán. Trong thời gian cháu H làm việc tại đây, L đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục với H hai lần, cụ thể như sau:
Sau khi biết được H hay bị đau bụng và đã đi chữa ở Bệnh viện tỉnh Hà Giang nhưng chưa khỏi và L nảy sinh ý định muốn quan hệ tình dục với H, để H đồng ý cho mình quan hệ tình dục, L lừa H bằng cách giúp H lấy dịch âm đạo đi xét nghiệm. Để H thêm tin tưởng và đồng ý cho mình quan hệ tình dục, L tiếp tục lừa H là mình biết cách chữa đau bụng và đã chữa khỏi cho nhiều người. Khoảng 15 giờ 30 phút 02/6/2023, để tiếp tục tạo sự tin tưởng, L đã nhắn tin qua ứng dụng Zalo trên điện thoại iphone màu hồng nhạt gắn thẻ sim ********* (tên Zalo của L là Tuổi Thơ Trôi Qua; tên Zalo của H là Vừ Thị H) cho H để hỏi về việc đau bụng của H. Khoảng 02 tiếng sau, L tiếp tục nhắn tin để hỏi H về các biểu hiện sức khỏe mà H đang gặp. Sau khi biết được các triệu chứng của H, L tiếp tục nói với H là L sẽ lấy dịch âm đạo của H đi xét nghiệm để giúp H chữa khỏi đau bụng. Đồng thời, L hẹn H đến buổi tối cùng ngày sẽ xuống ngủ ở quán của mình để lấy dịch âm đạo đi xét nghiệm (mục đích của L là để quan hệ tình dục với H) thì H đồng ý. Đồng thời, do sợ anh T biết nên L dặn H: “Tối nếu anh T có hỏi thì bảo đi ngủ ở nhà cô”. Khoảng 21 giờ cùng ngày, do quán đang có khách nên L nhắn tin cho H: “Tý nữa không có khách anh xuống đón”. Sau đó, L đi xuống quán bi a ở tổ 4, thị trấn N chơi. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi quán hết khách H nói dối T như lời dặn của L nhưng T vẫn đưa H xuống quán của L. Khoảng 10 phút sau, L đi chơi về thì thấy H đang ở trong quán nhưng do lúc này trong quán đang có đông khách và có các nhân viên khác nên L không nói chuyện gì với H. H ngồi ở trong quán đến khoảng 02 giờ sáng ngày 03/6/2023 thì đi lên trên gác xép ngủ. Khoảng 15 phút sau, sau khi quán hết khách và dọn dẹp xong thì anh Hứa Văn Q, sinh năm: 2000, trú tại: thôn K, xã L, huyện M, tỉnh Hà Giang (là phụ bếp của quán) đi chơi, lúc này ở trong quán chỉ còn L và H. Sau đó, L đi lên trên gác xép nằm ngủ ở đệm gần vị trí của H đang nằm ngủ (vị trí H nằm ngủ cách vị trí của L là 57cm). Được một lúc sau, L nhắn tin cho H: “Đợi tý anh đang nói chuyện với chị N”. Khoảng 10 phút sau, sau khi nói chuyện với người yêu của mình là chị Phạm Thị N. Để H đồng ý cho mình quan hệ tình dục, L tiếp tục nhắn tin bảo H: “em nằm xuống đi, để anh lấy dịch đi xét nghiệm” nhưng H không trả lời, L tiếp tục nhắn tin: “em cởi quần ra đi, lấy chăn trùm đầu đi” thì H kéo chăn trùm lên đầu nhưng không cởi quần nên khi L đi sang nằm ở bên cạnh H thì L dùng hai tay kéo quần (cả quần lót và quần dài) của H ra khỏi hai chân. Do nghĩ L lấy dịch âm đạo của mình đi xét nghiệm nên H không phản ứng gì. Tiếp đó, L tự cởi quần sịp của mình ra (L chỉ mặc quần sịp, không mặc quần dài) rồi dùng tay trái sờ, dùng ngón tay trỏ trái cho vào trong âm đạo của H được khoảng 10 giây thì H kêu đau nên L bỏ ngón tay ra. Lúc này, H đang trong tư thế nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng nên L dùng hai tay cầm vào hai chân của H chống lên, L trong tư thế quỳ gối rồi dùng tay trái cầm dương vật đang cương cứng của mình cho vào âm đạo của H, hai tay cầm vào hai bên hông của H và bắt đầu quan hệ tình dục với H. L quan hệ tình dục với H được khoảng 05 phút khi chuẩn bị xuất tinh thì L rút dương vật ra khỏi âm đạo của H và xuất tinh vào lòng bàn tay trái của mình. Sau khi quan hệ tình dục xong, L đưa H xuống nhà vệ sinh ở ngay gần cầu thang đi lên gác xép để H vệ sinh cá nhân, còn L ngồi đợi ở bàn máy tính ngay gần cầu thang. Sau khi H vệ sinh xong, L đưa H lên nằm ngủ ở vị trí của H, còn L nằm ngủ ở đệm bên cạnh. Khoảng 03 phút sau, để H tin tưởng là L lấy dịch âm đạo đi xét nghiệm và muốn quan hệ tình dục với H thêm lần khác nên L nhắn tin cho H: “xem tí có được không lấy nốt cho đủ, chịu đau một lần thì lần sau không phải lấy” thì H nhắn tin: “bây giờ đau quá” nên L nhắn tin trả lời:“ừ nó thông rồi tất nhiên phải đau chứ” và dặn H nếu có ai hỏi thì bảo bị sốt covit. Được một lúc sau, anh Q đi về và ngủ cùng L nên L không nhắn tin cho H nữa mà đi ngủ. Khoảng 08 giờ cùng ngày, để cho H tin tưởng, L tiếp tục nhắn tin cho H “để tý anh cầm đi xét nghiệm, chiều có kết quả” thì H đồng ý. Do L sợ mọi người biết việc L đã quan hệ tình dục với H nên L dặn H “nếu ai hỏi thì bảo em vừa đi nhà cô đến”, đồng thời bảo H ăn, ngủ, nghỉ lại tại quán và nói dối với H là để chờ kết quả xét nghiệm. Ngày hôm sau (ngày 04/6/2023), để H không nghi ngờ, L thường xuyên nhắn tin động viên H. Khoảng 19 giờ cùng ngày, sợ H hỏi về kết quả xét nghiệm nên L chủ động nhắn tin cho H: “hôm nay là chủ nhật nên trưa mai mới có kết quả” thì H đồng ý.
Khoảng 10 giờ ngày 05/6/2023, như lời đã nói với H trước đó, L nhắn tin thông báo cho H biết kết quả xét nghiệm là H đang bị viêm tử cung và tắc kinh. Thấy vậy, H sợ nên nhắn tin hỏi L: “bây giờ phải làm sao?”, thì L trả lời: “Bạn anh đang họp nên chưa hỏi được”. Sau đó, do thấy H mệt và đang bị covit nên L vẫn nhắn tin động viên H. Để tránh bị phát hiện, sau mỗi lần nhắn tin cho H, L đều dặn H đọc xong phải xoá hết tin nhắn.
Khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 06/6/2023, sau khi người yêu của L là chị N đi về (tối hôm trước L và N ngủ cùng nhau) được khoảng 02 phút, lúc này thấy H đang nằm ngủ một mình ở đệm bên cạnh, L tiếp tục nảy sinh ý định quan hệ tình dục với H nên L đi sang nằm ở bên cạnh H (L nằm nghiêng quay mặt về phía H) rồi dùng tay sờ vào mông của H, thấy vậy H giật mình và hỏi: “anh làm gì đấy?” thì L trả lời: “anh nằm bên cạnh em một tý nhé, để anh lấy nốt cái kia đi xét nghiệm”. Do nghĩ L tiếp tục giúp mình lấy dịch âm đạo đi xét nghiệm nên H không phản ứng gì nên L dùng hai tay kéo quần của H (cả quần lót và quần dài) xuống gần đến đầu gối rồi dùng tay trái cầm dương vật đang cương cứng của mình ra khỏi khe quần sịp (L chỉ mặc quần sịp, không mặc quần dài) rồi dùng dương vật quệt đi quệt lại phía bên ngoài bộ phận sinh dục của H được khoảng 10 giây thì L nghe thấy tiếng dép của chị N đi lên gác xép nên L nhanh chóng đi sang nằm ở đệm ngủ của mình, còn H tự kéo quần của H lên. Lúc này, do nghi ngờ L và H vừa quan hệ tình dục với nhau nên N đã đi đến vị trí của H rồi dùng tay tát vào mặt H một cái và nói: “không ngờ nhìn em hiền thế mà lại dễ vậy”, nghe vậy, H trả lời: “em không phải người như vậy”. Ngay sau đó, L kéo tay N sang vị trí L nằm ngủ và nói: “không liên quan gì đến H là do anh”. Còn H vẫn tiếp tục nằm ngủ được khoảng 05 phút thì đi xuống ngồi ở ghế bên trong quán. Khoảng 10 phút sau, N đi xuống chỗ của H đang ngồi để tiếp tục hỏi H về việc vừa xảy ra giữa L và H nhưng H chỉ khóc và không nói gì nên N lại đi lên trên gác xép. Được một lúc sau, L đi xuống và nói với H: “Khóc làm gì, không được nói gì với ai đấy, chuyện này để anh giải quyết”. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H đi về nhà cô của mình là chị Vừ Thị X, sinh năm: 1984, trú tại: tổ 2, thị trấn N, huyện M, tỉnh Hà Giang. Tại đây, H đã kể lại toàn bộ sự việc cho chị X biết. Sau đó, chị X đã gọi điện báo cho bố đẻ của cháu H là anh Vừ Mí L biết sự việc.
Đến khoảng 10 giờ, ngày 07/6/2023, H đã nhắn tin qua ứng dụng Zalo cho anh Nguyễn Thế V (hiện đang công tác tại Bệnh viện Đa kH huyện M) để hỏi về việc “H bị đau bụng và cái kia có kết quả chưa, anh L bảo em bị viêm phụ kH”. Khi xem tin nhắn, anh V không biết H đang nói gì nên đã nhắn tin hỏi lại H thì được biết L đã lấy bộ phận gì từ bộ phận sinh dục của H để nhờ anh V xét nghiệm, đồng thời H chụp ảnh màn hình nội dung tin nhắn giữa H và L gửi cho anh V. Qua xem ảnh chụp tin nhắn do H gửi thì anh V biết L đã lừa H để quan hệ tình dục nên anh V đã gặp H thì được H kể lại toàn bộ việc L lừa H để quan hệ tình dục sáng ngày 03/6 và sáng ngày 06/6/2023. Khi biết sự việc do H kể lại, anh V đã đến gặp L để hỏi thì L đã thừa nhận việc L nói lừa H để L thực hiện hành quan hệ tình dục như H đã kể, đồng thời anh V đã in toàn bộ các ảnh tin nhắn do H gửi giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M. Cùng ngày, sau khi nghe chị X kể lại sự việc, ông L cũng đã đến Công an thị trấn N trình báo và đề nghị giải quyết.
* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu:
+ Số đồ vật, tài liệu do Trần Văn L, giao nộp gồm:
- 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu hồng nhạt, mặt sau có chữ Iphone (đã qua sử dụng), không tiến hành kiểm tra tình trạng hoạt động của điện thoại.
- 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu bạc, mặt sau có chữ Iphone (đã qua sử dụng), không tiến hành kiểm tra tình trạng hoạt động của điện thoại. Hai chiếc điện thoại này sau khi lập biên bản giao, nhận đã tiến hành niêm phong theo quy định.
+ Số đồ vật, tài liệu do Vừ Thị H, giao nộp gồm:
- 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh có chữ OPPO (đã qua sử dụng), không tiến hành kiểm tra tình trạng hoạt động của điện thoại. Chiếc điện thoại này sau khi lập biên bản giao, nhận đã tiến hành niêm phong theo quy định.
+ Số đồ vật, tài liệu do Nguyễn Thế V, giao nộp gồm:
- 01 (một) bản ảnh, gồm 13 ảnh, nội dung: Nội dung tin nhắn giữa Vừ Thị H và Trần Văn L, do Vừ Thị H chụp ảnh màn hình rồi gửi cho Nguyễn Thế V. Bản ảnh do Nguyễn Thế V lập ngày 10/6/2023, trên các bản ảnh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thế V.
- 01 (một) bản ảnh, gồm 18 ảnh, nội dung: Nội dung tin nhắn Vừ Thị H nhắn tin cho Nguyễn Thế V. Bản ảnh do Nguyễn Thế V lập ngày 10/6/2023, trên các bản ảnh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thế V.
Căn cứ yêu cầu điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện M đã quyết định trưng cầu: Trung tâm giám định pháp y tỉnh Hà Giang giám định: Bộ phận sinh dục đối với Vừ Thị H; trưng cầu: Viện kH học Hình sự Bộ Công an giám định: Độ tuổi, Giám định: Gen (AND) đối với Vừ Thị H và Giám định: Dữ liệu điện tử (khôi phục lại dữ liệu đối với chiếc điện thoại màu hồng nhạt của Trần Văn L và chiếc điện thoại OPPO của Vừ Thị H).
Tại bản kết luận giám định số 25/KLTD-TTPY ngày 15/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Giang, kết luận:
- Màn trinh rách cũ vị trí 02 giờ, 08 giờ. Trong âm đạo có nhiều dịch màu trắng sữa - HIV, HCV, HbsAg: Âm tính.
- Phiến đồ âm đạo có nhiều bào nấm Candida. Không tìm thấy tinh trùng trên phiến đồ âm đạo.
- Kết quả siêu âm: Không thấy hình ảnh bất thường trong buồng tử cung - Hiện không có thai.
- Ngoài ra các bộ phận khác không thấy tổn thương.
Tại bản kết luận giám định độ tuổi trên người sống số 4700/KL-KTHS ngày 29/6/2023 của Viện kH học Hình sự Bộ Công an, kết luận: độ tuổi của Vừ Thị H tại thời điểm giám định (tháng 6/2023) là: từ 17 năm đến 17 năm 6 tháng.
Tại bản kết luận giám định số 4734/KL-KTHS ngày 01/8/2023 của Viện kH học Hình sự Bộ Công an, kết luận:
1. Không tìm thấy tinh trùng người trên mẫu ghi bệnh phẩm bên trong âm đạo của Vừ Thị H gửi giám định.
2. Lưu kiểu gen (AND) của Trần Văn L tại Viện kH học hình sự Bộ Công an. Tại bản kết luận giám định số 475/KL-KTHS ngày 11/9/2023 của Viện kH học Hình sự Bộ Công an, kết luận:
1. Trong mẫu vật gửi giám định ký hiệu A1.
- Không tìm thấy tin nhắn giữa tài khoản Zalo “Tuổi thơ trôi qua” với tài khoản “Vừ Thị H” trên ứng dụng Zalo trong điện thoại di động.
- Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn lưu trữ trong thẻ SIM.
2. Trong mẫu Vật gửi giám định ký hiệu A2.
- Chụp được hình ảnh nội dung tin nhắn giữa tài khoản Zalo “Tuổi thơ trôi qua” với tài khoản “Vừ Thị H” trên ứng dụng Zalo lưu trữ trong điện thoại di động. Chi tiết thể hiện tại thư mục “A2” trong đĩa CD kèm theo.
Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn lưu trữ trong thẻ SIM.
* Kèm theo kết luận giám định: 01 đĩa CD trên mặt đĩa có chữ ký của Giám định viên.
* Hoàn lại đối tượng giám định: Hoàn lại toàn bộ đối tượng giám định gửi giám định cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh Hà Giang.
Ngày 17/6/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện M đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bị cáo Trần Văn L về tội Hiếp dâm, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự.
Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSMV ngày 19/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Trần Văn L về tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 4 Điều 141 của BLHS.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội “Hiếp dâm”.
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 4 Điều 141; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn L mức án từ 08 (Tám) năm tù đến 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với vật chứng còn giá trị sử dụng, gồm:
- 01 (một) chiếc điện thoại di động được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi chữ “Chiếc điện thoại di động màu hồng nhạt của Trần Văn L”, mặt sau phong bì trên các mép dán có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và hình dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện M, tỉnh Hà Giang. Đây là chiếc điện thoại bị cáo đã sử dụng để nhắn tin cho bị hại trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; các điều 584, 585, 587, 592 Bộ luật dân sự 2015 đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thoả thuận của bị cáo và bị hại, đại diện bị hại về việc bồi thường danh dự nhân phẩm, tiền mất thu nhập và tiền đi lại cho bị hại Vừ Thị H số tiền 60.000.000 đồng. Tại phiên tòa gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 55.000.000 đồng.
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch cho bị cáo Trần Văn L theo quy định.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
Bị hại, đại diện bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 60.000.000 đồng là tiền tổn thất tinh thần, tiền đi lại và mất thu nhập. Ngoài ra không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền nào khác.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại phát biểu quan điểm: Đồng thuận với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Hà Giang về tội danh và mức hình phạt đối với bị cáo Trần Văn L. Đề nghị HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại, đại diện bị hại số tiền 60.000.000 đồng.
Lời nói sau cùng: Bị cáo cảm thấy ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mong HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình và hòa nhập xã hội. Hiện nay gia đình bị cáo rất khó khăn con cái còn rất nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Hà Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt người làm chứng Phạm Thị N. Xét thấy việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến việc làm sáng tỏ vụ án. Căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX quyết định tiếp tục giải quyết vụ án.
[3] Về tội danh: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do cố ý coi thường quyền bất khả xâm phạm về tình dục, cố ý coi thường pháp luật, nên vào khoảng 02 giờ 15 phút ngày 03/06/2023 để thỏa mãn nhu cầu sinh lý bị cáo Trần Văn L đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết về y học nên đã lừa dối, tạo niềm tin để Vừ Thị H đồng ý cho bị cáo lấy dịch đi xét nghiệm, sau đó bị cáo đã giao cấu trái ý muốn với H. Đến khoảng 6 giờ 30 phút sáng ngày 06/6/2023 bị cáo lại tiếp tục lừa dối H để quan hệ tình dục, bị cáo sử dụng dương vật của mình xâm nhập (cọ xát) trái ý muốn vào bộ phận sinh dục của H. Khi bị cáo thực hiện hành vi quan hệ tình dục với H, lúc đó H mới chỉ 17 năm đến 17 năm 06 tháng. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn L phạm tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 4 Điều 141 của Bộ luật hình sự.
Điều 141. Tội hiếp dâm “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng vào tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2….
4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phat quy định tại các khoản đó.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội đã xâm phạm trực tiếp đến quyền nhân thân, sức khỏe, tinh thần của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây Hng mang cho người dân trong địa bàn, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự địa phương. Bị cáo chỉ được học hết lớp 12/12 chưa được cấp chứng chỉ hay giấy tờ gì thể hiện bị cáo có chuyên môn trong việc khám chữa bệnh cho người khác, bị cáo lừa dối Vừ Thị H là mình có khả năng chữa bệnh nhằm mục đích giao cấu với H, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Hơn nữa, bị cáo là người chồng, người cha của 03 đứa con nhỏ đáng lẽ bị cáo phải làm ăn lương thiện để chăm sóc, vun vén cho hạnh phúc gia đình, nhưng vì thỏa mãn nhục dục của bản thân mà bị cáo đi vào con đường phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức xử phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Trong vụ án này, khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị hại Vừ Thị H mới được 17 năm đến 17 năm 6 tháng, do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 141 là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo phạm tội từ hai lần trở lên là tình tiết định khung được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 của BLHS. Do đó, khi lượng hình HĐXX xét thấy cần áp dụng đoạn 2 khoản 4 Điều 141 BLHS xử phạt bị cáo Trần Văn L theo mức hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 141 của BLHS, có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường một phần cho bị hại. Hơn nữa bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Trần Văn L để bị cáo thấy được chính sách kHn hồng của pháp luật.
[7] Về tình tiết tăng nặng: tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên là tình tiết định khung do vậy không áp dụng tình tiết tặng nặng đối với bị cáo.
[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp nhất định do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Xét về nhân thân: Bị cáo xuất thân trong gia đình thuần nông, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, chưa có tiền án, tiền sự.
[10] Căn cứ vào quá trình tranh tụng tại phiên tòa, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, nhân thân của bị cáo. HĐXX xét thấy cần phải cách ly bị cáo Trần Văn L ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định. Như vậy mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người biết sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa chung đối với các loại tội phạm.
[11] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
[11.1] Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với vật chứng còn giá trị sử dụng, gồm:
01 (một) chiếc điện thoại di động được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi chữ “Chiếc điện thoại di động màu hồng nhạt của Trần Văn L”, mặt sau phong bì trên các mép dán có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và hình dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện M, tỉnh Hà Giang. Đây là chiếc điện thoại bị cáo đã sử dụng để nhắn tin cho bị hại trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
[11.2] Đối với 01 (một) bản ảnh, gồm 13 ảnh, nội dung: Nội dung tin nhắn giữa Vừ Thị H và Trần Văn L, do Vừ Thị H chụp ảnh màn hình rồi gửi cho Nguyễn Thế V. Bản ảnh do Nguyễn Thế V lập ngày 10/6/2023, trên các bản ảnh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thế V; 01 (một) bản ảnh, gồm 18 ảnh, nội dung: Nội dung tin nhắn Vừ Thị H nhắn tin cho Nguyễn Thế V. Bản ảnh do Nguyễn Thế V lập ngày 10/6/2023, trên các bản ảnh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thế V. Đây là các tài liệu chứng cứ cần được lưu theo hồ sơ vụ án.
[11.3] Ngày 02/10/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện M ra Quyết định xử lý vật chứng số 17/QĐ-ĐCSHS-KTMT. Trả lại tài sản gồm 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu bạc, mặt sau có chữ Iphone (đã qua sử dụng) cho Trần Văn Tuấn, sinh năm 1985, trú tại tổ 2, thị trấn N, huyện M, tỉnh Hà Giang (Tuấn là anh trai ruột của bị can Trần Văn L); 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh có chữ OPPO (đã qua sử dụng) cho bị hại Vừ Thị H. Do vậy, HĐXX không đề cập xem xét.
[12] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo và bị hại, đại diện bị hại tự nguyện thỏa thuận tiền tồn thất tinh thần, tiền đi lại và chi phí mất thu nhập là 60.000.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Gia đình bị cáo đã bồi thường trước số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại, bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại số tiền 55.000.000 đồng. Căn cứ vào Điều 48 BLHS và các Điều 584, 585, 586, 592 BLDS, xét thấy việc thỏa thuận giữa bị cáo, bị hại, đại diện bị hại là hoàn toàn tự nguyện, không trái với điều luật, không vi phạm điều cấm, xét thấy cần được ghi nhận.
[13] Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch cho bị cáo.
[14] Xét quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Hà Giang và Trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, HĐXX chấp nhận toàn bộ.
[15] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[16] Biện pháp tư pháp: Cần ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Văn L để đảm bảo thi hành án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn L phạm tội “Hiếp dâm”.
2. Về hình phạt:
Hình phạt chính: Áp dụng khoản 4 Điều 141; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Trần Văn L 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 09/6/2023) Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 BLHS và các Điều 584, 585, 586, 592 BLDS: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và bị hại, đại diện bị hại, bồi thường tổn thất tinh thần, chi phí mất thu nhập, chi phí đi lại cho bị hại Vừ Thị H, sinh năm 2007 địa chỉ: thôn Q, xã P, huyện M, tỉnh Hà Giang là 60.000.000 đồng. Tại phiên tòa gia đình bị cáo đã bồi thường trước số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại, bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại số tiền 55.000.000 đồng.
4. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi chữ “Chiếc điện thoại di động màu hồng nhạt của Trần Văn L”, mặt sau phong bì trên các mép dán có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và hình dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện M, tỉnh Hà Giang.
(Đặc điểm chi tiết của các vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/10/2023 giữa cơ quan CSĐT Công an huyện M, tỉnh Hà Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Hà Giang).
5. Án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Miễn toàn bộ án phí HSST và án phí dân sự có giá ngạch cho bị cáo.
Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 332, 333 BLTTHS: Án xử kín, có mặt bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Báo cho bị cáo, bị hại, người đại diện bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/11/2023).
Bản án 17/2023/HS-ST về tội hiếp dâm
Số hiệu: | 17/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mèo Vạc - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về