Bản án 17/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13/5/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2021/TLST-HS ngày 30/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST- HS ngày 29/4/2021 đối với bị cáo: Nguyễn Thị H; Sinh ngày: 10/10/1998; Nơi sinh: Xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Tây H, xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức Thịnh và bà Nguyễn Thị Linh; Có chồng: Phạm Đức Tùng và 01 con (Sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” kể từ ngày 05/02/2021 đến nay; Có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị D; Sinh năm 2000; Nghề nghiệp: Công nhân; Địa chỉ: Thôn Chiến Thắng, xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Thái Hữu H; Sinh năm: 1997; Địa chỉ: Thôn Đập Lả, xã Sơn Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Nguyễn Thị D và chị Nguyễn Thị Hồng N có mối quan hệ thân thiết, thường xuyên liên lạc qua tài khoản Facebook “D Seri” và “Nguyễn Hồng N”. Biết được mối quan hệ này nên Nguyễn Thị H nảy sinh ý định lập tài khoản facebook giả mạo chị Nguyễn Thị Hồng N để nhắn tin lừa chị Nguyễn Thị D lấy tiền. Để thực hiện ý định, Nguyễn Thị H đổi tên tài khoản facebook của mình từ 1 “H N” (đăng ký từ số điện thoại 0836895798) thành “Nguyen Thi N” và lấy các hình ảnh gia đình của chị N từ tài khoản facebook “Nguyễn Hồng N” để cài đặt ảnh bìa và ảnh đại diện. Sáng ngày 04/02/2021, H dùng tài khoản facebook “Nguyen Thi N” nhắn tin đến tài khoản facebook “D Seri” của chị Nguyễn Thị D và nói điện thoại bị vỡ, mới mua điện thoại không nhớ được mật khẩu của tài khoản facebook “Nguyễn Hồng N” nên phải lập tài khoản facebook mới này để sử dụng. Sau một lúc, H nhắn là mình có việc cần tiền gấp nên hỏi mượn chị D 20.000.000 đồng và hứa ngày hôm sau sẽ trả lại. Chị D đồng ý cho H mượn số tiền 15.000.000 đồng và chuyển tiền vào số tài khoản 0201000733451 của Thái Hữu H mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại tH Việt Nam theo hướng dẫn của H. Sau khi chị D thông báo đã chuyển tiền thì bị cáo liên lạc với anh H nói rằng đã nhờ bạn chuyển tiền vào tài khoản anh H để trả nợ cho anh H 8.000.000 đồng và cho anh H vay 7.000.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi chị D liên lạc trực tiếp với chị Nguyễn Hồng N thì mới biết là chị Nhung không hề hỏi mượn tiền của mình nên đã đến Công an huyện Can Lộc để trình báo sự việc.

Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Can Lộc đã xác định được Nguyễn Thị H là đối tượng thực hiện vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói trên. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Về vật chứng: Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã thu giữ của Nguyễn Thị H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, thẻ sim số 0974511743 và thẻ sim số 0836895798. Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Can Lộc đã trả lại cho Nguyễn Thị H thẻ sim 0974511743. Hiện còn tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Can Lộc:

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 và thẻ sim 0836895798 của bị cáo.

Về dân sự: Trong giai đoạn điều tra, bị cáo đã bồi thường số tiền 15.000.000 đồng cho chị Nguyễn Thị D. Chị D không yêu cầu gì thêm về dân sự.

Ngày 24/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc ban hành bản kết luận điều tra số 14/KLĐT, đề nghị truy tố Nguyễn Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Ngày 26/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc truy tố Nguyễn Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự tại Cáo trạng số 18/CT-VKS-CL.

Tòa án nhân dân huyện Can Lộc đã thụ lý vụ án và mở phiên tòa đúng quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, khẳng định việc lừa đảo do một mình bị cáo tự thực hiện, không có ai biết, giúp sức. Bị cáo trình bày mục đích lừa chị D là để lấy tiền trả nợ cho anh Thái Hữu H 8.000.000 đồng và cho anh H vay 7.000.000 đồng. Sau khi sự việc xảy ra anh H đã trả lại cho bị cáo 7.000.000 đồng để hoàn trả cho chị D.

Lời khai có trong hồ sơ của chị D thể hiện: Vào sáng ngày 04/02/2021, chị D nhận được tin nhắn từ facebook “Nguyen Thi Nh” hỏi mượn tiền, người đó tự xưng là Nguyễn Thị Hồng N ở Tùng Lộc, là chị gái của người yêu chị D.

Do tin tưởng đó là chị Nhung thật nên chị D đồng ý cho mượn và chuyển vào tài khoản anh Thái Hữu H1 15.000.000 đồng theo hướng dẫn. Sau khi trình báo công an chị D đã nhận lại 15.000.000 đồng từ bị cáo, không yêu cầu gì thêm về dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời khai của anh H có trong hồ sơ thể hiện: Sáng ngày 04/02/2021, anh H nhận được 15.000.000 đồng qua tài khoản Ngân hàng Vietcombank và được Nguyễn Thị H thông báo là nhờ tài khoản của bạn để chuyển giúp trong đó có 8.000.000 đồng chị H trả nợ và 7.000.000 đồng chị H cho vay. Anh H không biết số tiền nhận được là từ hành vi trái pháp luật.

Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; tiết thứ hai điểm b, điểm i, tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 10 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20-24 tháng; Tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6; Tịch thu, tiêu hủy thẻ sim điện thoại số 0836895798; Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2] Xét hành vi của bị cáo:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Sáng ngày 04/02/2021, Nguyễn Thị H dùng tài khoản facebook giả mạo chị Nguyễn Thị Hồng N, nhắn tin cho chị Nguyễn Thị D để lừa chị D chuyển 15.000.000 đồng vào tài khoản của anh Thái Hữu H với mục đích trả nợ 8000.000 đồng và cho anh H vay 7.000.000 đồng. Khi chuyển tiền cho anh H, chị D không biết là H giả mạo chị Nhung. Khi nhận tiền từ chị D, anh H không biết việc bị cáo lừa chị D chuyển tiền.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Việc khởi tố, truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, đã bồi thường đầy đủ cho bị hại trong thời gian ngắn, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa bị cáo thể hiện sự day dứt, xấu hổ về hành vi của mình. Do đó, ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đề nghị, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng thêm tình tiết “ăn năn hối cải” quy định tại tiết thứ hai điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Về hướng xử lý đối với bị cáo: Xử phạt bị cáo mức án như Kiểm sát viên đề nghị là đủ sức răn đe đối với bị cáo đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Xét hành vi của anh Thái Hữu H: Bị cáo và anh H đều trình bày anh H không biết việc bị cáo lừa đảo chị D. Các lời khai này phù hợp với nội dung tin nhắn zalo giữa bị cáo và anh H mà Cơ quan điều tra thu thập được. Do đó không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự đối với anh Thái Hữu H.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại 15.000.000 đồng, không có ý kiến gì thêm về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Xử lý như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; khoản 1 điều 32, tiết thứ hai điểm b, điểm i, tiết thứ nhất, tiết thứ hai điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 3, khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H: 10 (Mười) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (Hai mươi) tháng tính từ ngày tuyên án án sơ thẩm (ngày 13/5/2021).

Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Uỷ ban nhân dân xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh quản lý giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6; Tịch thu, tiêu hủy thẻ sim điện thoại số 0836895798 của bị cáo. Tình trạng đặc điểm vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 29/3/2021 giữa Công an huyện Can Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Can Lộc.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:17/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;