Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 223/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1988 (Có mặt) Địa chỉ: ấp Cờ T, xã Đ, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Lê Thành N– sinh năm 1986 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Tân Q, xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình bày: Chị và anh Lê Thành N chung sống với nhau vào năm 2006, hôn nhân tự nguyện không cưỡng ép, có đăng ký kết hôn vào ngày 05/05/2006 tại UBND xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình chung sống vợ chồng luôn có những quan điểm bất đồng, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, có lần anh N đi nhậu về lại có hành vi đánh đập chị H, do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị H bỏ nhà đi và sống ly thân hơn 10 năm nay.

Nay chị cảm thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Minh H, sinh ngày 18/3/2007. Kể từ ngày vợ chồng ly thân cho đến nay thì cháu H sống chung với chị và cháu có nguyện vọng được sống chung với mẹ sau khi vợ chồng ly hôn.

- Về tài sản chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có nợ chung. Nay tại tòa án chị Nguyễn Thị Thu H yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê Thành N.

- Về con chung: Chị yêu cầu được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Minh H, sinh ngày 18/3/2007. Chị không yêu cầu anh Lê Thành N phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Thành N: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập cho anh Lê Thành N tham gia phiên họp kiểm tra việc, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và triệu tập tham gia phiên tòa, nhưng anh N đều không có mặt và không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp ly hôn, bị đơn anh Lê Thành N đang cư trú tại Ấp Tân Q, xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự .

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh Lê Thành N mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, phía chị Hà đồng ý xét xử vắng mặt anh N. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh N.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh N là hôn nhân hợp pháp, vì anh chị chung sống với nhau vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang ngày 05/5/2006 theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu xin được ly hôn của chị H là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, vợ chồng anh chị chung sống với nhau thời gian đầu hạnh phúc, thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H cho rằng vợ chồng luôn có những quan điểm bất đồng, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, có lần anh N đi nhậu về lại có hành vi đánh đập chị, do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị H bỏ nhà đi và sống ly thân với anh N hơn 10 năm nay.

Tại phiên tòa, mặc dù Hội đồng xét xử đã động viên chị H trở về chung sống với anh N để cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung nhưng chị H xác định vợ chồng chị đã ly thân hơn 10 năm nay nên tình cảm giữa chị và anh N không còn, vợ chồng đã không còn khả năng hàn gắn nên chị cương quyết ly hôn với anh N.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong thời gian ly thân vợ chồng anh N, chị H không ai quan tâm đến ai, không chăm sóc, giúp đỡ nhau, không thể hiện được tình nghĩa vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;…. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau,….”, điều này chứng tỏ hôn nhân giữa anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng không khả năng hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành tống đạt họp lệ cho anh N tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như triệu tập anh N tham gia phiên tòa nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do. Điều này chứng tỏ rằng anh N không có thiện chí muốn hòa giải đề trở về tiếp tục cuộc sống vợ chồng. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị H.

[4]Về con chung: Hội đồng sơ thẩm xét thấy, trong quá trình chung sống vợ chồng anh N, chị H có 01 con chung tên Lê Minh H, sinh ngày 18/3/2007, từ ngày vợ chồng ly thân cho đến nay cháu H vẫn được chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tại biên bản ghi nhận nguyện vọng ngày 30/11/2020, cháu H đề đạt nguyện vọng được sống chung với mẹ sau khi chị H và anh N ly hôn. Do đó, để đảm bảo điều kiện cho cháu H được phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, Hồi đồng xét xử thống nhất tiếp tục giao cháu Lê Minh H cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là hoàn toàn phù hợp pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu H.

Về cấp dưỡng, Chị H không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

Từ những nhận định nêu trên, trong thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng Điều 56, các điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thu Hà.

Về quan hệ hôn nhân: Chị H được ly hôn với anh N Về quan hệ con chung: Giao cháu Lê Minh H, sinh ngày 18/3/2007 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Lê Thành N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Thành N được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản.

Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm.

[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 khoản 4 Điều 147 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Lê Thành N.

2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Lê Minh H, sinh ngày 18/3/2007 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Lê Thành N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Thành N được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết, nên Tòa không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008039 ngày 19/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

5. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thu H, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với anh Lê Thành N có quyền kháng cáo trong hạn luật địnnh là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;