Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 480/2020/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, Tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2020/QĐXXST - DS ngày 08 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1970; Địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh H, sinh năm 1968; Địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang Chị T, anh H vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 25 tháng 9 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh H cưới nhau vào năm 1991 và có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không phụ giúp chị chăm lo cuộc sống gia đình, anh H nhậu về kiếm chuyện chửi chị, vợ chồng sống không hạnh phúc mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nay chị thấy vợ chồng không còn hạnh phúc và không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu ly hôn với anh H.

Về con chung: Có hai con chung tên Trần Thị Thu Nga, sinh ngày 13/9/1992 và Phạm Trần Hữu Nhơn, sinh ngày 09/3/2004. Hiện cháu Nga đã trưởng thành, cháu Nhơn đang sống chung với anh H. Khi ly hôn chị để anh H được quyền trực tiếp nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Không có Tại bản tự khai ngày 04 tháng 01 năm 2021 anh H trình bày:

Vợ chồng cãi vả trong cuộc sống thiếu thốn tiền bạc. Chị T yêu cầu ly hôn anh không đồng ý vì tương lai của con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phát biểu quan điểm Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Chị T có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn với anh H. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Chị T có đơn xin giải quyết vắng mặt, anh H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đương sự là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị T và anh H cưới nhau vào năm 1991, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện G vào năm 2004 là phù hợp với Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T trình bày là do anh H không phụ giúp chị chăm lo cuộc sống gia đình, anh H nhậu về kiếm chuyện chửi chị, vợ chồng sống không hạnh phúc mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Còn theo anh H trình bày là do mâu thuẫn về tiền bạc.

Xét thấy anh H cũng thừa nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, Tòa án đã triệu tập anh H đến để hòa giải nhằm hàn gắn mâu thuẫn nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do, cho thấy anh H không có thiện chí nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng, thời gian mâu thuẫn giữa chị T và anh H đã kéo dài mà không giải quyết được mâu thuẫn. Hội đồng xét xử xét thấy đời sống hôn nhân giữa chị T và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T và quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát, cho chị T ly hôn với anh H là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh H có hai con chung tên Trần Thị Thu Nga, sinh ngày 13/9/1992 và Phạm Trần Hữu Nhơn, sinh ngày 09/3/2004. Khi ly hôn chị T để anh H được quyền trực tiếp nuôi cháu Nhơn. Do anh H không hợp tác, Tòa án cũng đã tiến hành các biện pháp khác như đến nơi cư trú để lấy ý kiến, xác minh tại địa phương nhưng vẫn không xác định được nguyện vọng của con. Tuy nhiên, do hiện cháu Nhơn cũng đang sống trực tiếp với anh H, nên để tránh xáo trộn trong cuộc sống của cháu ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Nhơn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T và quan điểm điểm của đại diện Viện Kiểm sát, giao cháu Nhơn cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Vì lợi ích của con, anh H có quyền yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con bằng một vụ án khác.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [4] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị T và anh H.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên Phạm Trần Hữu Nhơn, sinh ngày 09/3/2004 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 300.000 đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 4154 ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Cơ quan thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;