Bản án 17/2020/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong các ngày 28 tháng 5 và 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Ngô Thị Thùy L, sinh ngày 03/02/1972, tại tỉnh T; Giới tính: Nữ; Nơi cư trú: Số 315 N, khu phố B, Phường M, thị xã G, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn Bán; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950 và bà Ngô Thị X, sinh năm 1951; Có chồng và 02 con lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 01 tháng 12 năm 2019, tạm giam ngày 04 tháng 12 năm 2019 và được tại ngoại ngày 20 tháng 01 năm 2020 (Theo Quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm số 364, ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã G, tỉnh T). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Kim P – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư V – Đoàn luật sư tỉnh T. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Minh L, sinh năm 1971; (Xin vắng mặt)

2/ Anh Nguyễn Ngô Minh T, sinh năm 1997; (Xin vắng mặt) Cùng nơi cư trú: Số 315 N, khu phố B, Phường M, thị xã G, tỉnh T.

- Người làm chứng: Ông Lê Văn Mai, sinh năm 1962; (Xin vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp L, xã L, thị xã G, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 02 giờ 30 phút, ngày 01/12/2019 tại nhà kho (không có số) địa chỉ tổ 11, ấp L, xã L, thị xã G, tỉnh T, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu - Công an tỉnh T kết hợp cùng Công an xã L, thị xã G bắt quả tang bị cáo Ngô Thị Thuỳ L đang thực hiện hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 15.789 bao. Tại hiện trường, số lượng thuốc lá điếu nhập lậu nêu trên được phát hiện tại các vị trí như sau:

- Bên trong khoang chứa hàng hoá của phương tiện ô tô biển số 63C– xxxxx đang đỗ trong nhà kho phát hiện số lượng 13.190 bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 2.399 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO;

- Trên võng đặt tại phần sau bên trong của nhà kho phát hiện 200 bao thuốc lá nhãn hiệu 555.

Ngoài ra, còn phát hiện 1.600 bộ bài Tây, nhãn hiệu “Double K” loại 52 lá (thông tin trên bao bì có dòng chữ Name: Double K High-grade Poker. Không có thông tin bằng tiếng Việt trên bao bì). Số bài này bị cáo L khai mua từ người phụ nữ ở chợ B, thành phố Hồ Chí Minh với giá 4.800 đồng/bộ, dự định sẽ bán ra thị trường với giá 5.000 đồng/bộ. Bị cáo không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không có hóa đơn, chứng từ mua bán.

Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu Công an tỉnh T đã lập biên bản tạm giữ và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã G toàn bộ tài liệu đồ vật thu giữ, tạm giữ gồm:

- Tổng số 15.789 bao thuốc lá điếu nhập lậu:

+ Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet, do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu, số lượng 13.190 bao (mỗi bao chứa 20 điếu).

+ Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero, do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu, số lượng 2.399 bao (mỗi bao chứa 20 điếu).

+ Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu 555, do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu, số lượng 200 bao (mỗi bao chứa 20 điếu).

- 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 63C-xxxxx đã qua sử dụng.

- 01 giấy đăng ký xe ô tô số: 011958, cấp cho chủ xe Ngô Thị Thùy L, xe biển số 63C-xxxxx, cấp ngày 12/2016, nơi cấp: Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh T.

- 1.600 bộ bài nhãn hiệu Double K loại 52 lá (thông tin trên bao bì có dòng chữ: Name: Double K Hign-grade Poker. Không có thông tin in bằng tiếng Việt trên bao bì).

Theo Kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐG ngày 06/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã G:

- Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet, do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu (mỗi bao chứa 20 điếu), số lượng 13.190 bao trị giá: 263.800.000 đồng.

- Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero, do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu (mỗi bao chứa 20 điếu), số lượng 2.399 bao trị giá: 38.384.000 đồng.

- Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu 555, loại bao dẹp, do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu (mỗi bao chứa 20 điếu), số lượng 200 bao trị giá 9.200.000 đồng.

- Bài tây, nhãn hiệu Double K, loại 52 lá (thông tin trên bao bì có dòng chữ Name: Double K High-grade Poker. Không có thông tin bằng tiếng Việt trên bao bì), số lượng 1.600 bộ giá: 11.200.000 đồng.

Tổng giá trị là 322.584.000 đồng.

Quá trình điều tra, bị cáo L khai nhận: Vào ngày 24/11/2019, có một người đàn ông ở Long An không rõ họ tên, địa chỉ, điện thoại cho bị cáo hỏi có nhu cầu mua thuốc lá điếu nhập lậu để bán vào dịp Tết Nguyên Đán năm 2020 hay không và bị cáo đồng ý. Đến ngày 26/11/2019, người đàn ông này tiếp tục liên hệ với bị cáo để xác nhận số lượng hàng, loại hàng và tiền hàng cụ thể: Thuốc lá nhãn hiệu Jet số lượng 13.190 bao, giá 17.200 đồng/bao. Thuốc lá nhãn hiệu Hero số lượng 2.399 bao, giá 14.200 đồng/bao. Thuốc lá nhãn hiệu 555, số lượng 200 bao, giá 44.000 đồng/bao. Đến khoảng 01 giờ, ngày 01/12/2019, người đàn ông ở Long An điện thoại cho bị cáo L để giao hàng thuốc lá. Bị cáo L hướng dẫn đường cho người giao hàng đi đến kho chứa hàng của mình tại địa chỉ Tổ 11, ấp L, xã L, thị xã G, tỉnh T. Đồng thời bị cáo đưa cho con trai bị cáo là anh Nguyễn Ngô Minh T số tiền 265.000.000 đồng đã được gói trong bịch nilong đen để đi đến kho nhận hàng và giao tiền. Sau đó anh T đến kho hàng và mở cửa nhà kho cho hai người thanh niên đi xe ô tô 07 chỗ ngồi nhãn hiệu INNOVA chuyển thuốc lá vào, trong lúc đó anh T ra phía trước nhà kho ngồi chờ đến khi hai thanh niên này chuyển hàng xong thì đưa tiền và mở cửa nhà kho cho hai thanh niên này lái xe về. Tổng giá trị lô hàng bị cáo L mua là 265.000.000 đồng, dự định sẽ bán lại cho các tiệm tạp hóa để lấy tiền lời với giá như sau:

- Thuốc lá nhãn hiệu Jet sẽ bán với giá 17.400 đồng/bao, tiền lời là 200 đồng/bao.

- Thuốc lá nhãn hiệu Hero sẽ bán với giá 14.400 đồng/bao, tiền lời là 200 đồng/bao.

- Thuốc lá nhãn hiệu 555, sẽ bán với giá 45.000 đồng/bao, tiền lời là 1000 đồng/bao.

Công an thị xã G đã Căn cứ Khoản 6, Điều 21 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng, ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 157/QĐ- XPVPHC ngày 13/01/2020 đối với bị cáo L về hành vi "Kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ", số tiền: 4.000.000 đồng. Ngày 11/02/2020, bị cáo đã nộp phạt xong.

Tại Cáo trạng số 13/CT-VKSTXGC ngày 10/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã G đã truy tố bị cáo Ngô Thị Thùy L về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã thể hiện, không có ý kiến tranh luận bổ sung.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3 Điều 190; Điều 35; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự; Xử phạt tiền bị cáo từ 2.500.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng, nộp Ngân sách nhà nước. Thời gian thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Phong tỏa tài khoản thẻ tiết kiệm có kỳ hạn (số 08360087), số tài khoản:

001013903427 của bị cáo Ngô Thị Thùy L tại Phòng giao dịch G – Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh T số tiền 2.100.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 1.600 bộ bài nhãn hiệu Double K loại 52 lá (thông tin trên bao bì có dòng chữ: Name: Double K Hign-grade Poker. Không có thông tin in bằng tiếng Việt trên bao bì), đã tịch thu, tiêu hủy theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 157/QĐ-XPVPHC ngày 13/01/2020 của Công an thị xã G.

- Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tịch thu tiêu hủy: 15.789 bao thuốc lá điếu nhập lậu, chứa trong 14 thùng đã được niêm phong có chữ ký của Điều tra viên Võ Trọng Nghĩa và người bị bắt Ngô Thị Thùy L.

+ Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung GT-E1200Y màu đen, còn SIM trong máy, đã qua sử dụng.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 xe ô tô tải mang biển kiểm soát 63C-xxxxx đã qua sử dụng và 01 giấy đăng ký xe ô tô số: 011958, cấp cho chủ xe Ngô Thị Thùy L, xe biển số 63C-xxxxx, cấp ngày 12/2016, nơi cấp: Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh T. Nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu lời bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo: Hoàn toàn thống nhất với tội danh của bị cáo theo như cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu. Xét về nhân thân của bị cáo thì bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại, quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, bị cáo luôn tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra nhằm làm sáng tỏ vụ án. Vì vậy, tôi đề nghị cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm h, s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có khả năng thi hành hình phạt tiền. Từ các tình tiết giảm nhẹ trên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật hình sự, để áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, cũng đủ răn đe giáo dục bị cáo và cũng thấy được sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước Việt Nam.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi, bị cáo rất ăn năn, hối cải về hành vi vi phạm của mình. Mong Hội đồng xem xét nhân thân và hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Ngô Thị Thùy L khai nhận ngày 01/12/2019, tại ấp L, xã L, thị xã G, tỉnh T, bị cáo đã mua 15.789 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại Jet, Hero và 555 do nước ngoài sản xuất, không có dán tem thuốc lá nhập khẩu, của một người đàn ông ở Long An không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể với giá 265.000.000 đồng, rồi cất giấu tại nhà kho của bị cáo, mục đích là bán lại kiếm lời, thì bị Công an bắt quả tang. Tổng giá trị 15.789 bao thuốc lá điếu nhập lậu có giá là 311.384.000 đồng.

Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, hiện trường, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng, cùng với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện nhằm hưởng lợi bất chính, thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, với mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thái độ của bị cáo tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải. Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Từ đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, khi lượng hình.

Do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 3 Điều 190 của Bộ luật hình sự và trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn.

Bị cáo có nộp cho Tòa án nhân dân thị xã G bản chính 01 (Một) văn bản cam kết về tài sản ngày 22/5/2020 và 01 (Một) thẻ tiết kiệm có kỳ hạn, tên Ngô Thị Thùy L, số thẻ 08360087 ngày phát hành 28/4/2020 của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam, số tiền 2.100.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản riêng của bị cáo, chứng minh bị cáo có khả năng thi hành án và bị cáo phạm tội xâm phạm về trật tự quản lý kinh tế, nên việc áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ sức răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo không tái phạm, đồng thời cũng góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Việc Công an thị xã G đã xử lý 1.600 bộ bài nhãn hiệu Double K loại 52 lá theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 157/QĐ-XPVPHC ngày 13/01/2020 của Công an thị xã G là đúng quy định nên ghi nhận.

- Đối với 15.789 bao thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe ô tô tải mang biển kiểm soát 63C-xxxxx đã qua sử dụng và 01 giấy đăng ký xe ô tô số: 011958, cấp cho chủ xe Ngô Thị Thùy L, xe biển số 63C-xxxxx, cấp ngày 12/2016, nơi cấp Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh T. Xe ô tô tải này thuộc sở hữu của bị cáo, sử dụng để đi giao hàng, do nhà kho không còn chỗ trống nên bị cáo chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu vào cất trong thùng xe, xét thấy bị cáo không dùng xe vào việc mua bán thuốc lá lậu nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung GT-E1200Y màu đen, còn SIM trong máy, đã qua sử dụng là phương tiện bị cáo sử dụng để liên lạc với người đàn ông ở Long An mua bán thuốc lá điếu nhập lậu, nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[7] Ý kiến trình bày của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ một phần được chấp nhận.

[8] Đối với anh Nguyễn Ngô Minh T khai nhận anh không biết mặt hàng giao nhận tại nhà kho của hai người thanh niên đến giao cụ thể là gì, số lượng bao nhiêu. Sau khi nhận hàng và giao tiền xong thì hai thanh niên này chạy xe đi thì lực lượng Công an đến kiểm tra, bắt quả tang, thấy nhiều bao bị rách hở ra mới biết đây là thuốc lá nhập lậu. Ông Nguyễn Minh L là chồng của bị cáo hoàn toàn không biết việc bị cáo buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu. Việc kinh doanh do bị cáo quản lý, ông không biết sự việc này. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã G không xử lý anh T và ông L là có cơ sở.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 3 Điều 190; Điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54;

Điều 35 và Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Ngô Thị Thùy L phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Ngô Thị Thùy L số tiền 2.500.000.000 (Hai tỷ năm trăm triệu) đồng. Thời gian thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 15.789 bao thuốc lá điếu nhập lậu, chứa trong 14 thùng đã được niêm phong có chữ ký của Điều tra viên Võ Trọng Nghĩa và người bị bắt Ngô Thị Thùy L.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung GT-E1200Y màu đen, còn SIM trong máy, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo: 01 xe ô tô tải mang biển kiểm soát 63C-xxxxx, đã qua sử dụng và 01 giấy đăng ký xe ô tô số: 011958, cấp cho chủ xe Ngô Thị Thùy L, xe biển số 63C-xxxxx, cấp ngày 12/2016, nơi cấp: Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh T. Nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Thời gian thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27 tháng 5 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G).

Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Thị Thùy L phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2020/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;