Bản án 17/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H, sinh ngay 09 tháng 5 năm 1988 tại huyện Huyện G, tỉnh H. Nơi đăng ky hô khâu thương tr ú va chô ơ : Thôn K, xã Đ, huyện G, tỉnh H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Nguyễn Đức H và bà Tạ Thị G;; vợ, con: Chưa có; tiên an, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 21/8/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 28/9/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị can chấp hành xong toàn bộ 02 bản án ngày 19/12/2008; ngày 17/5/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 25/7/2014; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến nay, có mặt.

- Các bị hại :

1. Anh Hoàng Ngọc Đ, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. 2. Bà Phùng Thị S, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Ông Bùi Quang S, sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Bà Lương Thị X, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

5. Bà Đỗ Thị T, sinh năm 1959. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

6. Ông Hứa Văn L, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn H, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

7. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn H, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

8. Ông Nông Văn B, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn H, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

9. Bà Hoàng Thị U, sinh năm 1964. Địa chỉ : Thôn H, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

10. Ông Luận Văn Y, sinh năm 1962. Địa chỉ : Thôn H, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

11. Anh Nguyễn Thành G, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn L, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

12. Ông Hoàng Văn Q, sinh năm 1966. Địa chỉ : Thôn L, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

13. Bà Lăng Thị H, sinh năm 1970. Địa chỉ : Thôn L, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

14. Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1982. Địa chỉ : Thôn L, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

15. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1965. Địa chỉ : Thôn L, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

16. Bà Phạm Thị T, sinh năm 1971. Địa chỉ : Thôn L, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

17. Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1962. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

18. Ông Chu Văn C, sinh năm 1968. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

19. Chị Lý Thị S, sinh năm 1989. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

20. Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1971. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, 21. Ông Phương Văn Th, sinh năm 1971. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

22. Chị Lộc Thị Ban M, sinh năm 1981. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

23. Ông Lê Thế C, sinh năm 1961. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

24. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1981. Địa chỉ : Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

25. Anh Đặng Văn Th, sinh năm 1991. Địa chỉ : Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

26. Bà Trần Thị H, sinh năm 1954. Địa chỉ : Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

27. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1974. Địa chỉ : Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

28. Bà Nguyễn Minh A, sinh năm 1973. Địa chỉ : Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

29. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1974. Địa chỉ : Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh S, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

30. Bà Ngô Thị K, sinh năm 1945. Địa chỉ : Thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

31. Ông Triệu Văn M, sinh năm 1956. Địa chỉ : Thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

32. Bà Triệu Thị L, sinh năm 1964. Địa chỉ : Thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

33. Bà Triệu Thị Đ, sinh năm 1958. Địa chỉ : Thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

34. Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1969. Địa chỉ : Thôn Bông, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

35. Chị Ngô Thị X, sinh năm 1982. Địa chỉ : Thôn Bông, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

36. Anh Lưu Văn V, sinh năm 1989. Địa chỉ : Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

37. Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1958. Địa chỉ : Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

38. Bà Ngô Thị B, sinh năm 1972. Địa chỉ : Thôn Bông, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

39. Bà Vũ Thị Bích H, sinh năm 1955. Địa chỉ : Thôn K, xã Q, huyện H, 40. Bà Vũ Thị H, sinh năm 1970. Địa chỉ : Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

41. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1968. Địa chỉ : Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh L, có mặt.

42. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1969. Địa chỉ : Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

43. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1962. Địa chỉ : Thôn K, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

44. Chị Đặng Thị H, sinh năm 1983. Địa chỉ : Thôn K, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

45. Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1978. Địa chỉ : Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh L, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Triệu Văn M: Ông Bế Quang H - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Nguyễn Thị M: Ông Hoàng Văn L - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Lương Chung K, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt.

2. Anh Lăng Văn C, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt.

3. Ông Linh Văn Ch, sinh năm 1974. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh L, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức H là đối tượng không có việc làm, không có thu nhập nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu xài. Do được bạn tên H (trước đây cùng chấp hành án phạt tù) bán cho thuốc độc gọi là thuốc “Xiêm” dạng viên và hướng dẫn cách dùng để đánh bả bắt trộm chó, mèo, đem bán cho những nhà hàng, quán ăn làm thực phẩm bán cho người. Sáng ngày 23/12/2019, Nguyễn Đức H đi mua cá khô loại nhỏ mang ra khu vực nghĩa trang gần thành phố H dùng kéo cắt đôi từng con cá, tán nhỏ thuốc độc thành bột, chấm cá vào thuốc độc, nhét bông vào bụng cá cho thuốc khỏi rơi làm thành bả. Sau đó sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung mở ứng dụng Google map tìm kiếm đường đi đánh bả tại các xã Y, H, Q, thuộc huyện H, tỉnh L. Đến tối cùng ngày, Nguyễn Đức H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciterbiển kiểm soát 34B2-905.03 của bị cáo mang theo số bả đã làm, 03 bao tơ dứa và dây buộc đi đến huyện H, tỉnh L. Khoảng 00 giờ ngày 24/12/2019, Nguyễn Đức H mở ứng dụng Google map trên điện thoại gắn điện thoại vào đầu xe rồi đi theo chỉ dẫn trên điện thoại tuyến đường đã chọn, vừa đi vừa dùng tay vứt bả sang hai bên lề đường tại những khu vực không có nhà dân. Khi đã thả hết số lượng bả chuẩn bị sẵn, Nguyễn Đức H quay xe trở lại điểm xuất phát ban đầu, điều khiển xe đi theo tuyến đường đã thả bả trước đó, khi thấy có mèo, chó bị chết do ăn phải bả thì Nguyễn Đức H dừng xe và nhặt cho vào bao tơ dứa chuẩn bị sẵn đặt ở khung trước của xe đến khi đầy thì buộc lại phía sau xe.

Khong 5 giờ ngày 24/12/2019, khi Nguyễn Đức H nhặt được đầy 02 bao chứa mèo, chó đã bị ăn bả chết buộc phía sau xe và 01 bao tại khung trước xe thì bị người dân phát hiện truy đuổi. Bị cáo điều khiển xe chở theo 03 bao tải chứa mèo, chó đã chết bỏ chạy trên đường tỉnh lộ 244 theo hướng xã Q - Y, đến khu vực thôn B, xã Y thì bị bắt giữ.

Quá trình điều tra làm rõ được các bị hại của vụ án gồm:

Tại thôn B, xã Y, huyện H có ông Nguyễn Văn H mất 02 con mèo, ông Lê Thế C mất 01 con mèo, ông Phương Văn Th mất 01 con chó, bà Lộc Thị Ban M mất 02 con mèo. Tại thôn Đ, xã Y, huyện H có ông Bùi Quang S mất 01 con mèo, bà Đỗ Thị T mất 01 con mèo, anh Hoàng Ngọc Đ mất 02 con mèo, bà Lương Thị X mất 01 con mèo, bà Phùng Thị S mất 02 con mèo. Tại thôn B, xã Y, huyện H có chị Lý Thị S mất 01 con mèo, ông Hoàng Văn C mất 03 con mèo, ông Hoàng Văn T mất 04 con mèo, ông Chu Văn C mất 01 con mèo.

Ti thôn H, xã Y, huyện H có ông Nông Văn B mất 02 con mèo, ông Hứa Văn L mất 01 con mèo, bà Vũ Thị P mất 01 con mèo, bà Nguyễn Thị M mất 01 con mèo, ông Luận Văn Y mất 01 con mèo. Tại L, xã Y, huyện H có bà Hoàng Thị T mất 01 con mèo, ông Hoàng Văn Q mất 03 con mèo, bà Lăng Thị H mất 02 con mèo, bà Nguyễn Thị N mất 01 con mèo, ông Nguyễn Thành G mất 01 con mèo, bà Phạm Thị T mất 01 con mèo. Tại thôn T, xã H, huyện H có ông Nguyễn Minh A mất 01 con mèo, bà Nguyễn Thị P mất 01 con mèo, bà Nguyễn Thị T mất 01 con mèo.

Tại thôn V, xã H, huyện H có bà Trần Thị H mất 01 con mèo, anh Đặng Văn Th mất 02 con mèo. Tại thôn Bờ Lình, xã Q, huyện H có bà Vũ Thị H mất 01 con mèo, bà Nguyễn Thị M mất 04 con mèo, ông Nguyễn Văn L mất 01 con mèo. Tại thôn T, xã Q, huyện H có bà Triệu Thị Đ mất 01 con mèo, bà Ngô Thị K mất 01 con mèo, ông Triệu Văn M mất 02 con mèo, bà Triệu Thị L mất 03 con mèo.

Ti thôn K, xã Q, huyện H có ông Nguyễn Văn C mất 01 con mèo, bà Đặng Thị H mất 02 con mèo. Tại thôn Bông, xã Q, huyện H có anh Lưu Văn V mất 01 con mèo, bà Hoàng Thị Hiểu mất 01 con mèo, bà Hoàng Thị N mất 01 con mèo, bà Ngô Thị X mất 01 con mèo, bà Ngô Thị B mất 01 con mèo. Tại thôn K, xã Q, huyện H có bà Vũ Thị Bích H mất 04 con mèo. Và tại thôn Bầm, xã Q, huyện H có ông Hoàng Văn T mất 01 con mèo.

Ngày 24/12/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đưa Nguyễn Đức H đi xác định hiện trường trộm cắp tài sản tại các xã Y, H, Q thuộc huyện H tỉnh L. Quá trình xác định hiện trường thu giữ 01 miếng cá khô màu nâu, kích thước 2,5cm x 1,5cm x 0,3cm, hai bên có kẻ sọc màu trắng, hai đầu được cắt bằng phẳng tại lề đường thuộc L, xã Y, bị cáo Nguyễn Đức H thừa nhận là bả bị cáo đã thả để đánh bả mèo, chó.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 24/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hữu Lũng kết luận: Giá trị tài sản tại thời điểm ngày 24/12/2019: 68 con mèo có tổng khối lượng là 151,5kg có giá 10.605.000 đồng, 01 con chó có khối lượng 2,5kg có giá 200.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 10.805.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 7852/C09(P4) ngày 06/01/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Trong miếng cá khô gửi giám định tìm thấy Natri xyanua (NaCN). Natri xyanua là chất độc mạnh, rất độc đối với người và động vật. Liều gây chết trung bình đối với động vật qua đường tiêu hóa (LD50) là 1,3 - 10 mg/kg thể trọng.

Tại Công văn số 61/C09-P4 ngày 16/3/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an bổ sung Kết luận giám định: Liều gây chết của Natri xyanua đối với người qua đường tiêu hóa là 1,8mg/kg thể trọng; Viện khoa học hình sự không có cơ sở để xác định mức độ ảnh hưởng đối với người khi ăn thịt động vật (chó, mèo, ...) bị chết bởi Natri xyanua qua đường tiêu hóa.

Ti bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 31/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức H đã khai nhận toàn bộ hành vi pham tôi của bản thân đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Về yêu cầu bồi thường của các bị hại bà Nguyễn Thị M, Nguyễn Minh A, Vũ Thị Bích H, Nguyễn Văn C và Triệu Văn M, bị cáo đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Các bị hại khác không yêu cầu bồi thường, bị cáo đồng ý.

Bị hại Nguyễn Thị M quá trình điều tra yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền là 1.385.000đ, tuy nhiên, tại phiên tòa bà M khai rằng ngoài bị mất 4 con mèo thì sau 2 ngày kể từ ngày bị cáo thả bả, gia đình bà còn bị chết 01 con chó do ăn phải bả của bị cáo thả nên bà M yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại về 04 con mèo và 01 con chó cho bà với tổng số tiền là 1.990.000đ.

Bị hại Hoàng Thị N quá trình điều tra có yêu cầu bồi thường, tuy nhiên tại đơn xin giải quyết vắng mặt bị hại lại có ý kiến không yêu cầu bồi thường.

Bị hại Nguyễn Minh A quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt đều yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 350.000đ.

Bị hại Vũ Thị Bích H quá trình điều tra yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 560.000đ nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt lại yêu cầu bồi thường tài sản bị thiệt hại với giá là 100.000đ/1kg.

Bị hại Nguyễn Văn C và Triệu Văn M quá trình điều tra không yêu cầu bồi thường, nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn C yêu cầu bị cáo bồi thường tài sản bị thiệt hại với giá là 150.000đ/1kg; ông Triệu Văn M yêu cầu bồi thường 300.000đ.

Còn lại các bị hại Nguyễn Văn H, Lê Thế C, Phương Văn Th, Lộc Thị Ban M, Bùi Quang S, Đỗ Thị T, Hoàng Ngọc Đ, Lương Thị X, Phùng Thị S, Lý Thị S, Hoàng Văn C, Hoàng Văn T, Chu Văn C, Nông Văn B, Hứa Văn L, Vũ Thị P, Nguyễn Thị M, Luận Văn Y, Hoàng Thị T, Hoàng Văn Q, Lăng Thị H, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thành G, Phạm Thị T, Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T, Trần Thị H, Đặng Văn Th, Vũ Thị H, Nguyễn Văn L, Triệu Thị Đ, Ngô Thị K, Triệu Thị L, Đặng Thị H, Lưu Văn V, Hoàng Thị Hiếu, Ngô Thị X, Ngô Thị B, Hoàng Văn T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội "Trộm cắp tài sản "; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm m khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai bốn) tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường tài sản cho các bị hại Nguyễn Minh A, Vũ Thị Bích H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Văn C, Triệu Văn M theo giá cơ quan điều tra đã xác định, cụ thể: Bồi thường cho ông Nguyễn Minh A số tiền 350.000 đồng; bồi thường cho bà Nguyễn Thị M số tiền 1.385.000 đồng; bồi thường cho bà Linh Văn C số tiền 560.000 đồng; bồi thường cho ông Nguyễn Văn C số tiền 210.000 đồng; bồi thường cho ông Triệu Văn M số tiền 300.000đ; các bị hại khác không yêu cầu bồi thường nên không xem xét. Về xử lý vật chứng đã thu giữ: Ngày 25/12/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã tiến hành tiêu hủy 151,5kg mèo và 2,5kg chó đã chết + 03 bao tải. Đối với 01 dây cao su màu đen + 01 bộ quần áo màu xanh không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 34B2-905.03 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen bạc, là tài sản bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh + 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H + 01 ví giả da màu nâu đã cũ + 01 mũ bảo hiểm màu đen, là tài sản và giấy tờ cá nhân của bị cáo Nguyễn Đức H, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo và bị hại đều không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bi cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hữu Lũng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lơi khai bi cao đa khai tai cơ quan điều tra, phù hợp với lơi khai cua bị hại và người làm chứng; phù hợp với kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để khẳng định: Đêm 23/12 rạng sáng ngày 24/12/2019, bị cáo Nguyễn Đức H đã có hành vi lén lút lợi dụng đêm tối không ai để ý, bị cáo đã đi thả các mẩu cá khô có tẩm thuốc độc chuẩn bị sẵn nhằm mục đích đầu độc vật nuôi của người dân như chó, mèo rồi đi thu gom về đem bán cho các nhà hàng, quán ăn làm thực phẩm bán cho người. Tổng số con vật bị chết do ăn phải bả và bị cáo đã thu gom được là 68 con mèo và 01 con chó có khối lượng là 151,5kg, trị giá là 10.805.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Đức H đã phạm tội "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi bị cáo đa thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản là vật nuôi của người khác va gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức H trình bày quanh co nhằm trốn tránh hành vi phạm tội của bản thân và không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo không được hương tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hành vi sử dụng thuốc có tính kịch động mạnh để đánh bả làm chết các con vật nuôi rồi gom về đem bán cho các các nhà hàng, quán ăn làm thực phẩm bán cho con người mà bị cáo thực hiện là hành vi rất tinh vi, xảo quyệt và rất nguy hại cho con người, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự quy định tại điểm m khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự

[5] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần nhưng không tu dưỡng rèn luyện bản thân, nay lại phạm tội, thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật.

[6] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính ren đe phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung : Xét bi cao không có tài sản, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Các bị hại Nguyễn Văn H, Lê Thế C, Phương Văn Th, Lộc Thị Ban M, Bùi Quang S, Đỗ Thị T, Hoàng Ngọc Đ, Lương Thị X, Phùng Thị S, Lý Thị S, Hoàng Văn C, Hoàng Văn T, Chu Văn C, Nông Văn B, Hứa Văn L, Vũ Thị P, Nguyễn Thị M, Luận Văn Y, Hoàng Thị T, Hoàng Văn Q, Lăng Thị H, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thành G, Phạm Thị T, Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T, Trần Thị H, Đặng Văn Th, Vũ Thị H, Nguyễn Văn L, Triệu Thị Đ, Ngô Thị K, Triệu Thị L, Đặng Thị H, Lưu Văn V, Hoàng Thị Hiếu, Ngô Thị X, Ngô Thị B, Hoàng Văn T vắng mặt tại phiên tòa và không yêu cầu bồi thường; bị hại Hoàng Thị N quá trình điều tra có yêu cầu bồi thường, tuy nhiên tại đơn xin giải quyết vắng mặt bị hại lại có ý kiến không yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Đối với yêu cầu bồi thường của các bị hại, cụ thể: bị hại Nguyễn Thị M yêu cầu bồi thường tổng 04 con mèo và 01 con chó là 1.990.000đ, Vũ Thị Bích H yêu cầu bồi thường 100.000đ/1kg; Nguyễn Minh A yêu cầu bồi thường 350.000đ; Nguyễn Văn C yêu cầu bồi thường 150.000đ/1kg; Triệu Văn M yêu cầu bồi thường 300.000đ. Bị cáo Nguyễn Đức H không đồng ý thỏa thuận bồi thường mà yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật. Xét yêu cầu bồi thường của các bị hại Nguyễn Thị M, Vũ Thị Bích H, Nguyễn Minh A, Triệu Văn M và Nguyễn Văn C là có căn cứ cần chấp nhận, buộc bị cáo Nguyễn Đức H có trách nhiệm bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại cho các bị hại theo mức giá do Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự đã xác định, cụ thể: bồi thường cho bà Nguyễn Thị M tổng số tiền 1.385.000đ; bồi thường cho ông Nguyễn Minh A 350.000 đồng; bồi thường cho bà Vũ Thị Bích H 560.000 đồng; bồi thường cho ông Nguyễn Văn C là 210.000đ; bồi thường cho ông Triệu Văn M là 300.000đ.

[11] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 dây cao su màu đen, vỏ ngoài màu đỏ, dài 1,5m, một đầu gắn móc bằng kim loại + 01 bộ quần áo mưa màu xanh đã qua sử dụng do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 151,5kg mèo và 2,5kg chó đã chết + 03 bao tải, ngày 25/12/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã tiến hành tiêu hủy, nay Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 34B2-905.03; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S8 màu đen, bạc, mà hình cảm ứng là tài sản bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Đối với 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H + 01 ví giả da màu nâu đã cũ + 01 mũ bảo hiểm màu đen là đồ vật cá nhân của bị cáo Nguyễn Đức H, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[12] Đối với người đàn ông tên Hùng bị cáo khai là người đã bán cho bị cáo thuốc độc, hướng dẫn cách đánh bả để trộm mèo, chó nhưng do bị cáo không rõ họ, tên, tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở điều tra làm rõ, Hội đồng xét xử không xem xét.

[13] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch để sung ngân sach Nha nươctheo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để sung ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm m khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Điều 357; khoản 1 Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự. Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/12/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Đức H.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Minh A số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi ngàn đồng); bồi thường cho bà Nguyễn Thị M số tiền 1.385.000đ (một triệu ba trăm tám mươi năm ngàn đồng); bồi thường cho bà Vũ Thị Bích H số tiền 560.000 (năm trăm sáu mươi ngàn đồng); bồi thường cho ông Triệu Văn M số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) và bồi thường cho ông Nguyễn Văn C 210.000đ (hai trăm mười ngàn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 dây cao su có vỏ ngoài màu đỏ, tổng chiều dài 1,5m, một đầu dây có buộc móc bằng kim loại + 01 bộ quần áo mưa đã qua sử dụng.

Tch thu sung ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh biển kiểm soát 34B2-905.03 xe cũ đã qua sử dụng + 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S8 màu đen, bạc, mà hình cảm ứng, đã qua sử dụng, số IMEI (5 số cuối): 08399.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, màn hình đen trắng đã qua sử dụng, số IMEI (5 số cuối): 01741, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức H 01 thẻ căn cước công dân số 030088000801 mang tên Nguyễn Đức H + 01 ví giả da màu nâu đã cũ + 01 mũ bảo hiểm màu đen loại mũ ¾ đầu đã qua sử dụng.

5. Về án phí: Buôc b ị cáo Nguyễn Đức H phải nôp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự giá ngạch để sung Ngân sách Nhà nước.

6. Bị cáo, bị hại bà Nguyễn Thị M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

619
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;