TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Hoàng Văn T, sinh năm 1985; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản T, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Hoàng Văn C, sinh năm 1959 và bà Cà Thị S, sinh năm 1960; bị cáo có vợ Lường Thị H, sinh năm 1986 và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến nay; có mặt tại phiên toà.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.
- Người làm chứng: Cà Văn S; nơi cư trú: bản T, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 15 phút, ngày 03/8/2020 Cà Văn S đi bộ đến nhà Hoàng Văn T ở bản T, xã P, huyện M; gặp T, S hỏi “Còn ma tuý không, để cho một ít”, S đưa cho T 200.000VNĐ, T nhận tiền rồi đưa cho S 01 gói nilon màu xanh bên trong có chất bột màu trắng thì bị Tổ công tác Công an xã P phát hiện Cà Văn S đã giao nộp gói nilon màu xanh bên trong có chất bột màu trắng, S khai nhận là ma tuý vừa mua được của T; cùng lúc, T cũng tự giao số tiền 200.000VNĐ và khai nhận đó là tiền bán ma tuý cho S. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 14 giờ 30 phút, thu giữ, niêm phong vật chứng, dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền. Cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Tâm nhưng không thu giữ gì thêm.
Hoàng Văn T khai về nguồn gốc ma tuý có được do T mua của một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, địa chỉ, T đã sử dụng một phần còn lại cất giữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.
Ngày 04/8/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Hoàng Văn T và Cà Văn S như sau: Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thu giữ với Cà Văn S có khối lượng: 0,01 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là TS. Còn lại: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu xanh niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.
Ngày 15/8/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 200.000VNĐ thu giữ của Hoàng Văn T.
Ngày 07/8/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số: 1282, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu TS là ma túy; Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,01 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,01 gam; loại Heroine”.
Ngày 03/9/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 1412, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.
Tiến hành điều tra xác minh nhân thân của Cà Văn S chưa có tiền án, tiền sự là người nghiện ma tuý cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.
Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Tâm nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của T.
Bản cáo trạng số 92/CT-VKS-ML ngày 02/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình với mục đích mua ma túy cất giữ để sử dụng và bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu và tiêu hủy 01 vỏ phong bì; 01 mảnh nilon màu xanh của Hoàng Văn T. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000VNĐ của Hoàng Văn T; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo T tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật hạn chế, hộ nghèo; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất có thể và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.
Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Người làm chứng vắng mặt, Hội đồng xét xử thấy lời khai có trong hồ sơ đã rõ nên quyết định xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Hoàng Văn T đã mua trái phép chất ma tuý về cất giấu với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời, cụ thể: Hồi 14 giờ 15 phút, ngày 03/8/2020 Cà Văn S đến nhà bị cáo Hoàng Văn T ở bản T, xã P, huyện M; gặp T, S hỏi “Còn ma tuý không, để cho một ít”, S đưa cho T 200.000VNĐ, T nhận tiền rồi đưa cho S 01 gói nilon màu xanh bên trong có chất bột màu trắng thì bị phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 1282, ngày 07/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu TS là ma túy; Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,01 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,01 gam; loại Heroine”. Như vậy, Hoàng Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ và bán trái phép chất ma tuý cho người khác để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giấu, cất giữ trái phép ma túy có khối lượng 0,01 gam mà còn bán trái phép chất ma túy cho người khác; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo Tâm phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng sâu, xa, vùng ba, nhận thức pháp luật hạn chế, hộ nghèo, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng chính quyền địa phương xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không chấp hành quy định của địa phương, không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.
[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: bị cáo không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 03/8/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
[9] Đối với Cà Văn S là người sử dụng ma túy, đã mua trái phép 0,01 gam Heroine của Tâm, bị bắt quả tang, nhưng Sáng chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan chức năng đã áp dụng biện xử phạt hành chính là có căn cứ; đối với người bán trái phép chất ma tuý cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của Tâm nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.
[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,01 gam Heroine, không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.
Hiện đang lưu kho vật chứng: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu xanh bị cáo Tâm đã sử dụng làm phương tiện cất giữ trái phép chất ma tuý, vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với số tiền 200.000VNĐ bị cáo Tâm đã bán bán trái phép chất ma túy cho Cà Văn S có được là số tiền do phạm tội mà có nên cần phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn T 26 (Hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, giam (03/8/2020); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng:
Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu xanh của Hoàng Văn T.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) của Hoàng Văn T.
(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2020 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).
4. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/11/2020).
Bản án 17/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 17/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về