Bản án 17/2020/HS-ST ngày 16/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 16/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2020/TLST- HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn L, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1996; nơi sinh và nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Minh N và bà Mạc Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29 tháng 11 năm 2019 đến nay, “có mặt”. Bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1985, “vắng mặt”.

Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Mạc Văn H, sinh năm 1997 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.

-Người tham gia tố tụng khác:

-Người làm chứng - Bà Nguyễn Thị M, “vắng mặt”.

- Chị Nguyễn Thị T, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn L và Mạc Văn H là bạn ở cùng thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 18 tháng 9 năm 2019 L đến phòng trọ của H ở thôn Đ, xã T, huyện B, Vĩnh Phúc chơi. Khoảng 20 giờ ngày 19 tháng 9 năm 2019, H đi chơi với bạn còn L ở phòng trọ một mình. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, L điện thoại cho H nói hết thuốc lá thì H bảo L lấy tiền trong ba lô của H, L lấy trong ba lô của H 300.000 đồng rồi đi bộ ra hàng tạp hóa của gia đình bà Nguyễn Thị M cách phòng trọ của H 100m, mua 01 chai nước và 01 bao thuốc lá Thăng Long. Khi L quay ra để đi về thì L nhìn thấy 01 chiếc điện thoại Samsung A50 của anh Nguyễn Văn T (con trai bà M) đặt trên 01 cuốn sổ để trên mặt ghế đá trước cửa hiệu tạp hóa, không có ai để ý nên L nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. L đi đến vị trí đặt chiếc điện thoại dùng tay trái cầm điện thoại đúc vào bên trong phía trước quần sịp đang mặc rồi đi về phòng trọ của H. Tại phòng trọ, L dùng 01 chiếc tăm chọc vào khe sim để lấy sim ra rồi để sim vào ốp lưng điện thoại rồi cất đấu dưới bếp ga mini được đặt trên bàn khung sắt và gạch đá hoa trong phòng trọ của H. Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, anh T xem lại camera của gia đình thì phát hiện L đã trộm cắp chiếc điện thoại di động nên đã tìm đến phòng trọ của H, sau đó báo cơ quan Công an đến lập biên bản sự việc và tạm giữ chiếc điện thoại di động L đã trộm cắp của anh T.

Cùng ngày, cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã tạm giữ 280.000 đồng của Lê Văn L.

Ngày 25 tháng 9 năm 2019 cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên có yêu cầu định giá số 118. Tại kết luận định giá số 85 ngày 30 tháng 9 năm 2019, Hội đồng định giá tài sản xác định chiếc điện thoại có giá trị 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Ngày 06/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50 cho anh Nguyễn Văn T, anh T không yêu cầu đề nghị về việc bồi thường.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên Lê Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 17/CT – VKSBX, ngày 20 tháng 01 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như Cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 8 tháng tù đến 10 tháng tù.

Về bồi thường: Bị hại là anh Nguyễn Văn T đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì nên không giải quyết.

Về vật chứng: Đối với số tiền 280.000 đồng đã tạm giữ của L là số tiền của H. H đồng ý cho L cầm để mua thuốc và nước, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho H.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Bị hại anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa quá trình điều tra anh T trình bày: Khoảng 21 giờ ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại quán tạp hóa của gia đình anh ở thôn Đ, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc anh đã bị mất trộm 01 điện thoại để trên ghế đá, sau đó anh đã trình báo cơ quan Công an, đã tìm được điện thoại tại nơi ở của Lê Văn L, L đã thừa nhận đây là điện thoại L trộm cắp tại gia đình anh, anh đã được nhận lại điện thoại không yêu cầu gì.

Người làm chứng bà Nguyễn Thị M và chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra bà M và chị T trình bày: Khoảng 21 giờ ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại quán tạp hóa của gia đình ở thôn Đ, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đã xảy ra việc anh Nguyễn Văn T bị mất trộm 01 điện thoại để trên ghế đá, sau đó gia đình đã trình báo cơ quan Công an, đã tìm được điện thoại tại nơi ở của Lê Văn L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Xét thấy tại phiên toà bị cáo Lê Văn L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 21 giờ ngày 19/9/2019, tại quán tạp hóa của gia đình anh Nguyễn Văn T ở thôn Đ, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, L dụng sơ hở Lê Văn L đã trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50 của anh T trị giá 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

[3] Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, vật chứng vụ án đã thu giữ; cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Lê Văn L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[4] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở gữu hợp pháp về tài. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng không có nghề nghiệp thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không có nơi cư trú rõ ràng. Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên đã trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm đó là người phạm tội thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Xét thấy bị cáo tuy có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng không chịu chỉn chu làm ăn, thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không có nơi cư trú rõ ràng, vì vậy cần phạt giam bị cáo một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về việc bồi thường và xử lý vật chứng:

Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì nên không giải quyết.

Về vật chứng: Đối với số tiền 280.000 đồng đã tạm giữ của L là số tiền của H. H đồng ý cho L cầm để mua thuốc và nước, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho H.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn L 08 ( Tám ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 29 tháng 11 năm 2019.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho anh Mạc Văn H 280.000 đồng ( Hai trăm tám mươi nghìn đồng) vì không liên quan đến việc phạm tội.

Tất cả các vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 20/1/2020.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Văn L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại, người có quyền L, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2020/HS-ST ngày 16/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;