Bản án 17/2020/HS-ST ngày 10/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 10/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Trần Thành T; tên gọi khác: M; giới tính: Nam; sinh ngày 20 tháng 7 năm 1996; nơi sinh: Tây Ninh; nơi cư trú: Tổ 5, ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; chỗ ở hiện nay: Ấp B, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không có; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 09/12; con ông Trần Văn K, sinh năm 1970 và bà Trần Thị L, sinh năm 1976; vợ, con: Không có; tiền sự, tiền án: Không có; tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an Huyện Dương Minh Châu.

2. Họ và tên: Bùi Văn H; tên gọi khác: Không có; giới tính: Nam; sinh ngày 11 tháng 7 năm 1998; nơi sinh: Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp N, xã C, Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không có; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 06/12; Con ông Bùi Văn N, sinh năm 1973 và bà Ngô Thị M, sinh năm; vợ, con: Không có;tiền sự, tiền án: Không có; tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an Huyện Dương Minh Châu. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thành T là người nghiện ma túy; để có tiền sử dụng ma túy, T bắt đầu mua bán trái phép chất ma túy để hưởng lợi; từ tháng 12 năm 2019, T mua ma túy của một thanh niên khoảng 30 tuổi (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) tại khu vực Bệnh viện Xuyên Á thuộc huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần khoảng 2.500.000 đồng rồi đem về nhà trọ “Hà Khang” thuộc khu vực ấp B, xã C, huyện Dương Minh Châu phân nhỏ ra từng bịch, bán lại cho những người nghiện trên địa bàn với giá từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 22/12/2019, Tấn cùng Bùi Văn H, Dương Minh H sử dụng trái phép ma túy tại phòng trọ số 8 nhà trọ “Hà Khang” thì Tấn nhận được cuộc gọi của Hồ Ngọc H, sinh năm 1991, ngụ khu phố 4, thị trấn Dương Minh Châu, huyện Dương Minh Châu hỏi mua 300.000 đồng chất ma túy thì Tấn đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại đường đất đỏ thuộc khu vực vườn cây cao su ấp B, xã C, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh; khi đi, T sử dụng xe mô tô biển số 70H5-3470 đến điểm hẹn giao ma túy và nhận của Hùng số tiền 400.000 đồng thì bị lực lượng Công an huyện Dương Minh Châu bắt quả tang.

Đối với Bùi Văn H cũng là người nghiện ma túy và quen biết T khi làm chung tại khu công nghiệp nên được T cho sử dụng ma túy không lấy tiền; T và H thống nhất khi có người hỏi mua ma túy nếu Tấn không trực tiếp đi giao được thì điện thoại cho H, chỉ nơi cất giấu ma túy và gửi số điện thoại người mua cho H; H liên lạc với người mua ma túy, hẹn địa điểm giao và lấy ma túy đi giao rồi nhận tiền về cho Tấn.

Với phương thức, thủ đoạn như trên, T và H đã thực hiện việc bán trái phép chất ma túy nhiều lần. Cụ thể:

- Ngày 05/12/2019, tại đường đất đỏ thuộc khu vực vườn cây cao su ấp B, xã C, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, Trần Thành T đã bán trái phép chất ma túy cho Hồ Ngọc H với số tiền là 300.000 đồng; số ma túy này, Hùng đã sử dụng hết.

- Khoảng 17 giờ ngày 18/12/2019, Hồ Ngọc H sử dụng điện thoại di động số 0964.644.974 gọi cho T theo số 0363.429.357 hỏi mua chất ma túy với số tiền 300.000 đồng thì T đồng ý; Tấn sử dụng số điện thoại 0363.429.357 gọi cho Bùi Văn H theo số 0339.808.530 kêu H vào phòng trọ số 8 nhà trọ “Hà Khang”, lấy ma túy đem đi giao cho H, H đồng ý và lấy ma túy đi giao cho Hùng, nhận tiền về giao lại cho T.

- Khoảng 17 giờ ngày 19/12/2019, Hồ Ngọc H sử dụng điện thoại di động số 0964.644.974 gọi cho T theo số 0363.429.357 hỏi mua chất ma túy với số tiền 300.000 đồng thì Tấn đồng ý; Tấn sử dụng số điện thoại 0363.429.357 gọi cho Bùi Văn H theo số 0339.808.530 kêu H vào phòng trọ số 8 nhà trọ “Hà Khang”, lấy ma túy đem đi giao cho H, H đồng ý và lấy ma túy đi giao cho H, nhận tiền về giao lại cho T.

- Khoảng 17 giờ ngày 20/12/2019, tại phòng trọ số 8 nhà trọ “Hà Khang”, T bán cho Bùi Văn H01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng; số ma túy này H đã sử dụng hết.

- Khoảng 18 giờ ngày 21/12/2019, Hồ Ngọc H sử dụng điện thoại di động số 0964.644.974 gọi cho T theo số 0363.429.357 hỏi mua chất ma túy với số tiền 300.000 đồng thì T đồng ý; Tấn sử dụng số điện thoại 0363.429.357 gọi cho Bùi Văn H theo số 0339.808.530 kêu Hậu vào phòng trọ số 8 nhà trọ “Hà Khang”, lấy ma túy mang đi giao cho H, H đồng ý và lấy ma túy đi giao cho H, nhận tiền về giao lại cho T.

Tại cơ quan điều tra, Trần Thành T và Bùi Văn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận giám định số 1865/KL-KTHS, ngày 26/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Tất cả các mẫu chất màu trắng không rõ hình dạng, ký hiệu từ M1, M2, M3, M4 gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là: 0,3508gam, 0,0362gam, 1,0586gam và 0,8143 gam. Tổng khối lượng chất ma túy đã giám định là 2,2599gam.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu giữ quyền công tố và tranh luận: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Thành T, Bùi Văn H như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất của vụ án, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu đề nghị truy tố đối với các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thành T mức án từ 08 đến 09 năm tù giam; bị cáo Bùi Văn H mức án từ 07 đến 08 năm tù giam và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô biển số 59K1-986.80; 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu xanh; xe mô tô 67 biển số 70QA-998 thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn K, sinh năm 1970 ngụ tổ 15, ấp Đ, xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh và ông Mai Hoàng O, sinh năm 1979 ngụ ấp Bình Linh, xã Chà Là, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh không có liên quan. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại các vật chứng trên, ông K và ông O đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Dương Minh Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, bị cáo Trần Thành T là đối tượng đang sử dụng ma túy nên mua ma túy về phân thành từng gói nhỏ để sử dụng và bán lại cho những người nghiện ma túy, cụ thể bị cáo đã bán cho đối tượng Hồ Ngọc H 05 lần, bán cho bị cáo Bùi Văn H01 lần. Trong 05 lần bán cho Hồ Ngọc H bị cáo Tấn có nhờ bị cáo H đi bán dùm 03 lần. Sau khi bị cáo H bán dùm về bị cáo có cho bị cáo H sử dụng ma túy chung không phải trả tiền. Xét hành vi của hai bị cáo là đồng phạm giản đơn, khi có người mua ma túy, bị cáo T bận thì nhờ bị cáo H đến nhà trọ lấy ma túy bán dùm hoàn toàn không có sự bàn bạc phân công công việc vụ thể. Hành vi của các bị cáo là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tiếp nhận nguồn tin tội phạm, biên bản xác định địa điểm, biên bản ghi nhận sự việc, kết luận của hội đồng định giá cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định các bị cáo Trần Thành T, Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo thấy rằng: Bị cáo T là trực tiếp mua và phân ma túy thành gói bán và bán nhiều lần hơn bị cáo H nên bị cáo phải chịu trách nhiệm chính và mức hình phạt cao hơn bị cáo H. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma túy hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì hám lợi bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử các bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo khi áp dụng hình phạt.

Thời gian các bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ đi thời gian chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

* Đối với hành vi của Trần Thành Tấn cho Dương Minh H và Bùi Văn H sử dụng trái phép chất ma túy trong phòng trọ, qua điều tra xác định chưa đủ căn cứ nên không đề cập xử lý hình sự trong vụ án này.

* Đối với bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1989 ngụ ấp Bình Linh, xã Chà Là, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh là chủ nhà trọ “Hà Khang” không biết việc Trần Thành T dùng phòng số 8 để sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy để bán nên không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự.

* Đối với Hồ Ngọc H, Dương Minh H đã sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần, vi phạm khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội. Hành vi của H, H đã bị Cơ quan điều tra Công an huyện Dương Minh Châu ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền; trong đó, đối với H là 1.000.000 đồng; Hoài là 750.000 đồng.

[4]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng trong vụ án:

* Vật chứng trong vụ án bao gồm: Tất cả các mẫu chất màu trắng ký hiệu từ M1, M3, M4 gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là: 0,2034 gam, 0,8122 gam và 0,6552 gam; 56 bịch nilon màu trắng hàn kín ba đầu; 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 10 bịch nilon màu trắng hàn kín ba đầu; 02 cây kéo bằng kim loại; 01 đoạn ống thủy tinh; 08 nỏ thủy tinh; 03 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cuộn băng keo màu đen; 01 bình thủy tinh màu trắng; 01 bình xịt hơi cay hiệu NATO; 03 bật lửa; 03 nắp nhựa màu đỏ, đục thủng 02 lỗ; 03 chai nhựa màu trắng; 05 bình gas hiệu NAMILUX; 01 cây kiếm bằng kim loại; 01 cái chày màu đen bằng kim loại. Tất các các vật chứng trên đều được là công cụ các bị cáo sử dụng trong quá trình mua bán chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

* Đối với tiền Việt Nam là 1.720.000 đồng thu giữ của bị cáo Tấn, bị cáo xác định là tiền do hành vi phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước

* Đối với 01 điện thoại di động NOKIA màu đen số IMEL 35520103/089184/5; 01 điện thoại di động NOKIA màu xanh số IMEL 356948/03/242932/6 ; 01 xe mô tô biển số 70H5-3470, màu xanh số máy IP50FMH10244391, số khung MPCH102YT026352 và 01 xe mô tô biển số 70B1-20880 số máy 44S1-041348, số khung RLCL44S10BY041395 là phương tiện các bị cáo liên lạc và thực hiện hành vi mua bán chất ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Hiện các vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thành T và Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Thành T (Mập) 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22-12-2019.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22-12-2019.

2. Về biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị bao gồm: Tất cả các mẫu chất màu trắng ký hiệu từ M1, M3, M4 gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là: 0,2034gam, 0,8122 gam và 0,6552 gam có chữ ký của giám định viên Võ Quốc T và trợ lý Lê Hồng P thuốc Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh; 56 bịch nilon màu trắng hàn kín ba đầu và một đầu dán; 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 10 bịch nilon màu trắng hàn kín ba đầu; 02 cây kéo bằng kim loại; 01 đoạn ống thủy tinh; 08 nỏ thủy tinh; 03 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cuộn băng keo màu đen; 01 bình thủy tinh màu trắng; 01 bình xịt hơi cay hiệu NATO; 03 bật lửa; 03 nắp nhựa màu đỏ, đục thủng 02 lỗ; 03 chai nhựa màu trắng; 05 bình gas hiệu NAMILUX; 01 cây kiếm bằng kim loại; 01 cái chày màu đen bằng kim loại.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với tiền Việt Nam là 1.720.000 đồng; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen số IMEL 35520103/089184/5; 01 điện thoại di động NOKIA màu xanh số IMEL 356948/03/242932/6 ; 01 xe mô tô biển số 70H5-3470, màu xanh số máy IP50FMH10244391, số khung VTMPCH102YT026352 và 01 xe mô tô biển số 70B1-20880 số máy 44S1- 041348, số khung RLCL44S10BY041395 là phương tiện các bị cáo liên lạc và thực hiện hành vi mua bán chất ma túy.

3. Về án phí:

Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2020/HS-ST ngày 10/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;