Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NL, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện NL, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 53/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020, Quyết định hoãn phiên toà số 15/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 23/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Quách Thị H; sinh năm: 1984; nơi cư trú: Làng L, xã PG, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M; sinh năm: 1978; nơi cư trú: Làng L, xã PG, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá.

Tại phiên toà vắng mặt chị H, anh M. Chị H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh M vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 13/02/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Quách Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn M kết hôn tự nguyện, đăng ký ngày 15/4/2004 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã PG, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh M không chịu tu chí làm ăn, thường xuyên chơi bời. Chị và gia đình đã khuyên giải nhưng vẫn không được. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh M.

Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 17/02/2003 và cháu Nguyễn Văn TN, sinh ngày 15/7/2007. Hiện các cháu đang ở với anh M. Nếu ly hôn, chị giao cả hai cháu cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, chị cấp dưỡng nuôi cháu TN mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ nay cho đến khi cháu TN đủ 18 tuổi. Còn cháu T đã đi làm, chị không cấp dưỡng nuôi cháu T.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn M để làm bản tự khai, trình bày ý kiến về những nội dung yêu cầu khởi kiện của chị H nhưng anh M không có mặt nên không có lời khai của anh M và các bên không thống nhất được các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); chị H đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật, anh M không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51; 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử cho chị Quách Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn M. Giao cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 17/02/2003 và cháu Nguyễn Văn TN, sinh ngày 15/7/2007 cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không phải cấp dưỡng nuôi cháu T. Chị H phải cấp dưỡng nuôi cháu TN mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ tháng 07/2020 cho đến khi cháu TN đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự nhưng anh Nguyễn Văn M không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh M theo quy định tại khoản 3 điều 210 BLTTDS.

Anh M đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh M đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

Toà án cũng đã triệu tập hợp lệ anh M lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên toà nhưng anh M vẫn không có mặt mà không có lý do nên căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 điều 227, khoản 3 điều 228 BLTTDS Toà án xét xử vắng mặt anh M.

Chị Quách Thị H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228 BLTTDS, Toà án xét xử vắng mặt chị H.

[2] Về hôn nhân: Chị Quách Thị H và anh Nguyễn Văn M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 15/4/2004 tại UBND xã PG, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do anh M không chịu tu chí làm ăn. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập anh M lên làm việc để anh M được bày tỏ quan điểm, ý kiến và nguyện vọng của mình nhưng anh M đều không có mặt, thể hiện anh M không thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó chứng tỏ chị H, anh M đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nghĩ nên căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị H được ly hôn anh M.

[3] Về con cái: Chị H và anh M có 02 con chung. Xét thấy, hiện tại các cháu đang ở với anh M. Các cháu có nguyện vọng muốn được ở với bố khi bố mẹ ly hôn. Để không bị xáo trộn cuộc sống và đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho cháu, cũng như theo nguyện vọng của các cháu, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cả 02 cháu cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thấy cháu T đã đi làm, có thể tự nuôi sống bản thân, cũng như theo nguyện vọng của cháu không cần bố mẹ cấp dưỡng; cháu TN đang đi học nên cả bố và mẹ đều phải có trách nhiệm nuôi dưỡng cháu, mức đề nghị cấp dưỡng của chị H là phù hợp, nên chấp nhận yêu cầu của chị H, chị không phải cấp dưỡng nuôi cháu T, chị phải cấp dưỡng nuôi cháu TN mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ tháng 07/2020 cho đến khi cháu TN đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản: Chị H không yêu cầu nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; 56; 58; 81; 82; 83; 107; 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; 227; 228; 271; 273; 482 BLTTDS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Quách Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn M.

2. Về con cái: Giao cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 17/02/2003 và cháu Nguyễn Văn TN, sinh ngày 15/7/2007 cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không phải cấp dưỡng nuôi cháu T. Chị H phải cấp dưỡng nuôi cháu TN mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ tháng 07/2020 cho đến khi cháu TN đủ 18 tuổi.

Chị H có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Từ khi anh M có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, hàng tháng chị H còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357; khoản 2 Điều 468 BLDS trên số tiền phải thi hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí: Chị Quách Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con chung, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện NL, theo biên lai số AA/2018/0006850 ngày 04/3/2020. Chị H còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị H, anh M. Chị H, anh M có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Khon tiền cấp dưỡng nuôi con được thi hành ngay, mặc dù bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;