TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 17/2019/HSST NGÀY 27/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 29/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXXST- HS ngày 13/8/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 16/5/1981; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới t nh: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H và bà Đặng Thị Th; có vợ là Hoàng Thị Ch; có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2019 đến ngày 11/5/2019, sau đó được tại ngoại cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H1; sinh năm 1959; trú tại: Thôn B, xã Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.
Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong h sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 08 tháng 5 năm 2019, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có đối tượng đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 97B1 – 589.30, đi từ hướng xã H về xã Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành xác minh ngu n tin. Khi tổ công tác đi đến đoạn đường dốc Nh thuộc thôn N, xã Ch, huyện B thì phát hiện đối tượng nghi vấn là Nguyễn Văn H (Sinh năm 1981; trú tại: thôn B, xã Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn). Qua kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện và thu giữ tại mặt đường nhựa ngay dưới chân của H 01 gói bằng giấy vệ sinh mở ra bên trong có 02 gói nhỏ được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy (heroine). H thừa nhận 02 gói chất bột màu trắng bị phát hiện và thu giữ ở mặt đường nhựa là chất ma túy (heroine) của H để rơi xuống mặt đường. Tổ công tác đã niêm phong 02 gói chất bột màu trắng nghi là ma túy vào phong bì ký hiệu A1, ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Văn H 01 điện thoại di động có bàn ph m nhãn hiệu Viettel, điện thoại cũ đã qua sử dụng. Tổ công tác đã đưa H cùng tang vật về trụ sở Công an huyện B để điều tra làm rõ.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn H có khối lượng là 0,10 gam đã niêm phong vào phong bì ký hiệu A2 gửi trưng cầu giám định.
Tại Kết luận giám định số 77/KTHS-MT ngày 14/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A2 thu giữ của Nguyễn Văn H mà cơ quan điều tra Công an huyện B gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng là 0,10g”. Sau giám định, mẫu chất bột còn lại là 0,080 gam cùng phong bì, bao gói cũ được niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T77, hoàn trả lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B quản lý theo quy định.
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H khai nhËn: Bản thân là người nghiện ma tuý (Heroine) nên khoảng 10 giờ, ngày 08/5/2019 H mượn xe máy của bố là ông Nguyễn Văn H (trú cùng thôn với H), đi sang xã H, huyện B, tỉnh Bắc Kạn với mục đ ch là đi tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến đỉnh dốc K, thuộc thôn B, xã H, H gặp 03 người đàn ông có biểu hiện của người nghiện ma túy nên dừng xe hỏi ba người đó “Có ai biết chỗ nào có ma túy bán không?” thì có một người nói là “lấy bao nhiêu” H trả lời là “ lấy 100.000 đồng” người đàn ông đó đ ng ý bán cho H 02 gói nhỏ ma túy với giá 100.000 đ ng. Trên đường về đến đoạn dốc Nh thuộc thôn N, xã Ch thì bị tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B yêu cầu dừng xe kiểm tra, vì dừng xe máy đột ngột nên 02 gói ma túy H đang cầm trên tay trái bị rơi xuống mặt đường nhựa ngay dưới chân, sau đó bị Tổ công tác Công an huyện B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy (Heroine) có khối lượng 0,10 gam.
Lời khai của Nguyễn Văn H phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong h sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKSBB, ngày 29 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)…;.
c) Heroin,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…..
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000. đến 500.000. …. ”.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo Cáo trạng, đề nghị Hội đ ng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 08/5/2019 đến ngày 11/5/2019. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 5.000.000 đ ng để sung công quỹ Nhà nước.Về xử lý vật chứng và án phí theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như trên là đúng người, đúng tội và mức hình phạt theo đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp, bị cáo chỉ xin HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong h sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đ ng xét xử nhận định như sau:
1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện B và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong h sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở xác định: H i 14 giờ 00 phút, ngày 08/5/2019 tại đoạn đường thuộc thôn N, xã Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, Nguyễn Văn H bị tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B phát hiện và bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 02 gói nhỏ chất ma túy (heroine) có khối lượng 0,10 gam.
Nguyễn Văn H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật tuy nhiên do bản thân nghiện ma túy nên đã cố ý tàng trữ trái phép 0,10 gam chất ma túy nhằm mục đ ch để sử dụng. Hành vi của Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
3 Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của nhà nước đối với các chất ma tuý, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự.
4 Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Bị cáo Nguyễn Văn H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội do vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo”quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có ông ngoại là ông Đặng Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất do vậy còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
Căn cứ vào t nh chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo trong một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung cho xã hội.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt ch nh, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng và án phí đối với bị cáo là phù hợp, có cơ sở để chấp nhận.
5 Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
6 Về xử lý vật chứng:
- 01(Một) phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong chứa toàn bộ phong bì giấy gói cũ, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
- 01(Một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T77 bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất trong phong bì ký hiệu A2 còn lại là 0,080 gam cùng phong bì, bao gói cũ, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.
- 01(Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen, viền đỏ, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, tuy nhiên cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án dân sự cho bị cáo.
- 01(Một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 97B1 – 589.30. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của ông Nguyễn Văn H1 (Sinh năm 1959. Trú tại: thôn B, xã Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn) là bố đẻ của H, việc H mượn xe máy đi mua ma túy ông H1 không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Văn H1 là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Nguyễn Văn H khai mua với một người đàn ông không quen biết, ở đoạn đường thuộc thôn B, xã H, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Quá trình điều tra H không cung cấp được họ tên đầy đủ cùng địa chỉ cụ thể của đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo:
- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 08/5/2019 đến ngày 11/5/2019.
- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 5.000.000 đ ng (Năm triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong chứa toàn bộ phong bì giấy gói cũ;
+ 01(Một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T77 bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất trong phong bì ký hiệu A2 còn lại là 0,080 gam cùng phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt trước phong bì có ghi vụ Nguyễn Văn H (1981) tàng trữ trái phép chất ma túy ký hiệu “T77” mặt sau có 03 chữ ký không đọc được cùng 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.
- Tạm giữ 01(Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen, viền đỏ, điện thoại cũ đã qua sử dụng của Nguyễn Văn H để bảo đảm thi hành án dân sự cho bị cáo.
(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 17/2019/HSST ngày 27/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 17/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về