Bản án 17/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Phú xét sử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 184/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hữu M, sinh ngày: 04/7/1988; Tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Ấp 4, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 650/6B Đường Đ, phường 11, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp Bảo vệ; Trình độ văn hóa 6/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam, Tôn giáo Không; Quốc tịch Việt Nam, con ông Nguyễn Hữu X và bà Lê Thị Đ (đã chết); Vợ Nguyễn Thị Tuyết L; Có 01 con; Tiền án: 01, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/9/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Hồ Thị Minh T, sinh ngày: 22/10/1991; Tại Đồng Nai; Thường trú: Ấp 2, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa 6/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam, Tôn giáo Không; Quốc tịch Việt Nam, con ông Hồ Văn M và bà Nguyễn Thị N; Có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/9/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/9/2018 Nguyễn Hữu M điều khiển xe gắn máy biển số 71C2-269.86 chở Hồ Thị Minh T lưu thông trên đường Tân Kỳ Tân Quý, khi đi đến trước số 411 Tân Kỳ Tân Quý, phường Tân Quý, quận Tân Phú thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Tân Phú tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện M và T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi áo khoác của M một bao tay bằng vải bên trong có 01 gói nylon chứa 150 viên màu xanh hình giọt nước.

Tại Cơ quan điều tra, M và T khai nhận: Vào trưa ngày 12/9/2018 M đang ở nhà số 650/6B Đường Đ, phường 11, quận 10 thì T gọi điện thoại nói có người hỏi mua thuốc lắc và hẹn M mang đến khách sạn M trên đường Trần Thiện Chánh, phường 12, quận 10 đón Trang để cùng nhau đi bán. M đồng ý, rồi gọi điện thoại cho đối tượng tên Dũng (chưa rõ lai lịch) hỏi mua thuốc lắc, Dũng báo giá 130.000 đồng/viên và hẹn gặp tại ngã tư Lê Hồng Phong – Đường 3/2, quận 10; M đến điểm hẹn mua ma túy của Dũng nhưng chưa trả tiền rồi đến khách sạn đón T. T nói M chở đến khu vực đường Phan Đăng Lưu để bán ma túy cho một thanh niên tên Phước (chưa rõ lai lịch) nhưng khi đến nơi T không liên lạc được với Phước nên T nói M chở đến khu vực chợ Tân Định tìm Phước nhưng không gặp. Sau đó, M chở T đến nhà bạn tại khu vực Đinh Bộ Lĩnh chơi, tại đây T mượn ma túy của M mở ra xem rồi trả lại. Đến khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày T liên lạc với 01 đối tượng tên Lộc (chưa rõ lai lịch) đển bán thuốc lắc và báo giá 155.000 đồng/viên và hẹn gặp nhau tại chung cư trên đường Bờ Bao Tân Thắng nên T nói M chở qua quận Tân Phú khi cả hai đến trước số 411 Tân Kỳ Tân Quý, phường Tân Quý, quận Tân Phú thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang. T và M khai đây là lần đầu cả hai đi bán ma túy chung nhưng chưa bán được thì bị bắt, nếu bán được ma túy tiền lời của ai người đó hưởng.

Tại Kết luận giám định số 1527/KLGĐ-H ngày 20/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 150 viên nén hình giọt nước màu xanh khắc hình điện thoại được ký hiệu mẫu m là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 57,8044g (năm bảy phẩy tám không bốn bốn gam), loại Ketamine.

Vật chứng thu giữ: Đang nhập kho vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 324/PNK ngày 22/10/2018, gồm:

+ 01 (một) gói niêm phong số 1527 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số máy 098476327102529350.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobistar, STB 01283846998, số máy 352212121462266.

+ 01 (một) xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha (Exciter) biển số 71C2-269.86, số máy 55P1429972, số khung 55P10EY429955.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Coolpad, số máy 860565030067897.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKSQTP ngày 07/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú để xét xử bị cáo Nguyễn Hữu M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm n, q khoản 2 Điều 251 và bị cáo Hồ Thị Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;

Sau khi nghe lời khai nhận tội của các bị cáo;

Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú về mức án đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do muốn bán ma túy để kiếm tiền lời nên vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/9/2018 tại trước số 411 Tân Kỳ Tân Quý, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Nguyễn Hữu M và Hồ Thị Minh T đã có hành vi mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện thì bị bắt quả tang, thu giữ 57,8044g (năm bảy phẩy tám không bốn bốn gam) ma túy ở thể rắn, loại Ketamine.

Đối với các đối tượng tên Dũng, Phước và Lộc do không biết rõ nhân thân, lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với tang vật chứng thu giữ, phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung“Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Bị cáo M bị Tòa án nhân dân quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo bản án hình sự sơ thẩm số 229/2012/HSST ngày 26/12/2012, chấp hành xong hình phạt ngày 14/02/2017) chưa được xóa án tích nay lại phạm tội nên thuộc trường hợp“Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố bị cáo Nguyễn Hữu M theo điểm n, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Hồ Thị Minh T theo điểm n khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phát tán cái chết trắng trong cộng đồng, làm phát sinh các tệ nạn và tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, bản thân các bị cáo thừa biết ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao, bị nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển dưới bất kỳ hình thức nào. Bản thân các bị cáo tham lợi bất chính, ngoài ra bị cáo T còn nghiện ma tuý nên đã bất chấp mọi hậu quả lao vào con đường phạm tội, thực hiện hành vi mua bán ma tuý nhằm thỏa mãn nhu cầu cho bản thân. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng xem xét các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo M đã tích cực hợp tác với cơ quan Công an trong việc phát hiện tội phạm (theo Công văn số 388/CV-CSĐT ngày 14/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú về việc đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ) để áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[3] Đây là dạng tội, ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử phạt bổ sung các bị cáo số tiền 5.000.000 đồng.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (một) gói niêm phong số 1527 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số máy 098476327102529350, M dùng để liên lạc mua bán mua ma túy, đây là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobistar, STB 01283846998, số máy 352212121462266 xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo M nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Coolpad, số máy 860565030067897, T dùng để liên lạc mua bán ma túy đây là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

+ Đối với 01 (một) xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha (Exciter) biển số 71C2-269.86, số máy 55P1429972, số khung 55P10EY429955 là phương tiện phạm tội; Mạnh khai mua xe trên của một người tên Ngọ (chưa rõ lai lịch) vào tháng 7/2018 với giá 15.000.000 đồng nhưng không làm giấy tờ sang tên. Qua xác minh, xe gắn máy trên do anh Nguyễn Văn N, thường trú 139/GN, xã A, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đứng tên chủ sở hữu. Hiện anh N không có mặt tại địa phương, gia đình anh N cung cấp thông tin xe trên đã bán cho một người chưa rõ lai lịch. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu hoặc người đang quản lý, sử dụng hợp pháp xe gắn máy trên nên cần thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng nếu không tìm được chủ sở hữu hoặc người đang quản lý hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu M với mức án từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù, xử phạt bị cáo Hồ Thị Minh T từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hữu M, Hồ Thị Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào điểm n, q khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu M 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2018.

Căn cứ vào điểm n khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hồ Thị Minh T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2018.

Phạt bổ sung bị cáo M, bị cáo T số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về xử lý vật chứng: (Tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 324/PNK ngày 22/10/2018 của Công an quận Tân Phú).

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 1527 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số máy 098476327102529350 (thu giữ của M) và 01 (một) điện thoại di động hiệu Coolpad, số máy 860565030067897 (thu giữ của T).

+ Trả lại cho bị cáo M 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobistar, STB 01283846998, số máy 352212121462266 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quậ-n Tân Phú đăng tin trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người đang quản lý hợp pháp 01 (một) xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha (Exciter) biển số 70C2-269.86, số máy 55P1429972, số khung 55P10EY429955; quá hạn nếu không tìm được thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;