TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Lê Kim L; sinh ngày 09/9/1988, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê G và bà Nguyễn Thị Kim A; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2019 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa theo luật định cho bị cáo Lê Kim L: Ông Trương Quang Tín, Luật sư Văn phòng luật sư Quang Tín, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi (Theo Quyết định phân công số 27/ĐLS ngày 12/7/2019 của Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi); vắng mặt tại phiên tòa nhưng có luận cứ bào chữa cho bị cáo.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Hồng A, sinh năm 1988; trú tại: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
1. Ông Đinh Văn T, sinh năm 1991.
Trú tại: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
2. Ông Nông Văn T, sinh năm 1979.
Trú tại: Thôn Bình Đ, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
3. Ông Ngô Văn C, sinh năm 1995.
Trú tại: Thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
4. Ông Đỗ Ngọc T, sinh năm 1969.
Trú tại: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
- Người chứng kiến:
1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1979.
Trú tại: Thôn L, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
2. Ông Trần Viết V, sinh năm 1986.
Trú tại: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
3. Ông Huỳnh Thanh P, sinh năm 1973.
Trú tại: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, Ngô Văn C, tên gọi khác: U (Sinh năm 1995, HKTT: Thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi) sử dụng số điện thoại “xxxxxxxxxx” gọi liên lạc cho Lê Kim L (số điện thoại: “yyyyyyyyyy”) hỏi mua ma túy “đá”, L đồng ý bán cho C với số tiền 2.000.000đ và hẹn đến cầu B thuộc xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi để giao bán ma túy cho C (trích xuất tin nhắn từ điện thoại Samsung, màu vàng của Lê Kim L có nội dung“Nua h 2 tr nha em chuan bi tien di h anh”). Đến khoảng 14 giờ 20 phút ngày 27/6/2019, Lê Kim L điều khiển xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh biển kiểm soát xxCx-xxxxx, mang theo túi xách màu nâu có chứa ma túy đến ngã ba gần cầu B để bán ma túy “đá” cho Ngô Văn C; khi L đang đứng đợi C đến thì bị bắt quả tang cùng túi xách màu nâu. Tiến hành kiểm tra bên trong túi xách màu nâu của Lê Kim L, Cơ quan Cảng sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi phát hiện trong túi xách có chứa: 01 (Một) ốp lưng điện thoại di động, phía sau ốp lưng có in hình nghệ thuật (ảnh của Lê Kim L và bạn gái), trong ốp lưng chứa 01 (Một) túi nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng; 01 (Một) túi vải màu đen, dây kéo màu vàng có chứa: 05 (Năm) túi nylon màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng, 09 (Chín) túi nylon màu trắng được hàn kín hai đầu, 01 (Một) túi nylon màu trắng chứa 52 (Năm mươi hai) viên nén màu xanh; 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng, bên trong chứa 01(Một) túi nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng; 01 (Một) điện thoại di động; 02 phiếu yêu cầu chuyển tiền mang tên Lê Kim L; 01 (Một) hộp giấy màu trắng có dòng chữ VSMART Joy 1+ có chứa: 01 (Một) cân tiểu ly điện tử, 01 (Một) quẹt lửa, 03 (Ba) đoạn ống hút, 17 (Mười bảy) túi nylon được hàn kín 2 đầu có kích thước và hình dáng khác nhau.
Tiếp tục kiểm tra trong người Lê Kim L, Cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ:
02 điện thoại di động, 6.400.000đ (Sáu triệu bốn trăm ngàn đồng), 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim L, 01 (Một) giấy chứng nhận xe mô tô, mang tên Trần Thiện D, 03 (Ba) phiếu yêu cầu dịch vụ mang tên Lê Kim L và 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát xxCx- xxxxx (Bút lục số 8, 9, 11, 12, 55, 63, 82, 96; 223 - 232).
Tại bản kết luận giám định số 567/KLGĐ-PC09, ngày 30/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, kết luận:
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong túi ny lông màu trắng (trong phong bì số1) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 2,48 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong 05 túi ny lông màu trắng (trong phong bì số 2) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Ketamine, có khối lượng là 1,43 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong 09 túi ny lông màu trắng (trong phong bì số 3) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 22,40 gam.
- 52 viên nén màu xanh (không rõ hình) bên trong túi ny lông màu trắng, (trong phong bì số 4) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng là 15,12 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong túi ny lông màu trắng (trong phong bì số 5) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 23,13 gam.
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng khối lượng chất ma túy Methamphetamine và MDMA là: 2,48 gam + 22,40 gam + 15,12 gam + 23,13 gam = 63,13 gam. Khối lượng chất ma túy Ketamine là 1,43 gam.
Căn cứ Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu của từng chất là: (63,13gam/100gam x 100%) + (1,43/300gam x 100%) = 63,5%.
* Vật chứng thu giữ:
- 01 (Một) phong bì được niêm phong bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong chứa chất ma túy hoàn lại sau giám định.
- 01 (Một) điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu SAMSUNG; 01 (Một) điện thoại di động màu xanh - đen, nhãn hiệu ITEL; 01 (Một) điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu ITEL.
- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh đen, model: TA-1034, Imei1: 352892102898156, Imei2: 352892103898155 và 01 (Một) thẻ sim Viettel có dãy số 8984004800002061563.
- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.400.000 (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
- 01 (Một) túi xách màu nâu, trên bề mặt túi xách có chữ Jeep; 01 (Một) ốp lưng điện thoại di động, phía sau ốp lưng có in hình nghệ thuật (ảnh 1 nam, 1 nữ); 01 (Một) túi vải màu đen, dây kéo màu vàng; 01 (Một) hộp giấy màu trắng có dòng chữ VSMART Joy 1+; 01 (Một) cân tiểu ly điện tử; 01 (Một) quẹt lửa; 03 (Ba) đoạn ống hút; 17 (Mười bảy) túi nylon được hàn kín 2 đầu có kích thước và hình dáng khác nhau; 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng.
- 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim L; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thiện D, biển đăng ký 76C1-38581.
Tại bản Cáo trạng số 1345/CT-VKS ngày 31/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Lê Kim L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
* Về phần hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Kim L từ 15 năm đến 16 năm tù.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- 01 (Một) phong bì được niêm phong bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong chứa chất ma túy hoàn lại sau giám định, gồm: 44,5 gam ma túy, loại Methamphetamine; 13,5 gam ma túy, loại MDMA; 1,15 gam ma túy, loại Ketamin; tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (Một) điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu SAMSUNG của bị cáo Lê Kim L; đây là phương tiện bị cáo L sử dụng để liên lạc mua bán mua túy nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- 01 (Một) điện thoại di động màu xanh - đen, nhãn hiệu ITEL; 01 (Một) điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu ITEL của bị cáo Lê Kim L; bị cáo L không sử dụng làm phương tiện mua bán ma túy nên trả lại cho bị cáo L.
- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh đen, model: TA-1034, Imei1: 352892102898156, Imei2: 352892103898155 và 01 (Một) thẻ sim Viettel có dãy số 8984004800002061563 của Đinh Văn T; đây là phương tiện T sử dụng liên lạc với L để mua ma túy nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.400.000 (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Lê Kim L không liên quan đến việc mua bán ma túy nên trả lại cho bị cáo L.
- 01 (Một) túi xách màu nâu, trên bề mặt túi xách có chữ Jeep; 01 (Một) ốp lưng điện thoại di động, phía sau ốp lưng có in hình nghệ thuật (ảnh 1 nam, 1 nữ); 01 (Một) túi vải màu đen, dây kéo màu vàng; 01 (Một) hộp giấy màu trắng có dòng chữ VSMART Joy 1+; 01 (Một) cân tiểu ly điện tử; 01 (Một) quẹt lửa; 03 (Ba) đoạn ống hút; 17 (Mười bảy) túi nylon được hàn kín 2 đầu có kích thước và hình dáng khác nhau; 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng của Lê Kim L có liên quan đến việc phạm tội nên tuyên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim L; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thiện D, biển đăng ký xxCx-xxxxx không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Lê Kim L.
* Về biện pháp tư pháp: Đối với số tiền 7.000.000 đồng bị cáo Lê Kim L đã bán ma túy cho Nông Văn T và Đinh Văn T, đây là tiền bị cáo mua bán ma túy mà có nên buộc bị cáo L phải nộp số tiền 7.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.”
Luận cứ bào chữa cho bị cáo Lê Kim L: Cáo trạng số 1345/CT-VKS ngày 31/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Lê Kim L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Đồng thời, bị cáo cũng có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luât hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức khởi điểm của khung hình phạt là 15 năm tù.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Những tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là phù hợp với quy định của Luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định.
Tại phiên tòa những người làm chứng ông Đinh Văn T, ông Nông Văn T, ông Ngô Văn C, ông Đỗ Ngọc T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự quyết định xét xử vắng mặt những người này.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Kim L khai nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập tại hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến nên đủ sơ sở xác định: Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, Ngô Văn C (tên gọi khác: U) sử dụng số điện thoại “xxxxxxxxxx” gọi điện thoại cho Lê Kim L (số điện thoại “yyyyyyyyyy”) hỏi mua ma túy đá thì L đồng ý nên hai bên thỏa thuận thống nhất L bán cho C ma túy đá với số tiền 2.000.000 đồng và địa điểm giao dịch bán ma túy là ở Cầu B thuộc xã B, huyện B, đồng thời Lê Kim L có dùng điện thoại của mình nhắn tin đến số điện thoại “xxxxxxxxxx” cho Ngô Văn C với nội dung “Nua h 2tr nha em chuan bi tien di h anh” và “Chu dug bat anh doi nha” với ý nghĩa “Nửa hộp 02 triệu nha em chuẩn bị tiền đi giờ anh tới” và “Chứ đừng bắt anh đợi nha”. Khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, Lê Kim L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh biển kiểm soát xxCx-xxxxx, mang theo túi xách màu nâu có chứa ma túy đến ngã ba gần cầu Bà để bán ma túy đá cho Ngô Văn C thì bị bắt quả tang cùng túi xách màu nâu. Tiến hành kiểm tra bên trong túi xách màu nâu của Lê Kim L, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi phát hiện trong túi xách có chứa: 01 (Một) ốp lưng điện thoại di động, phía sau ốp lưng có in hình nghệ thuật (ảnh của Lê Kim L và bạn gái), trong ốp lưng chứa 01 (Một) túi nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng; 01 (Một) túi vải màu đen, dây kéo màu vàng có chứa: 05 (Năm) túi nylon màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng, 09 (Chín) túi nylon màu trắng được hàn kín hai đầu, 01 (Một) túi nylon màu trắng chứa 52 (Năm mươi hai) viên nén màu xanh; 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng, bên trong chứa 01(Một) túi nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng; 01 (Một) điện thoại di động; 02 phiếu yêu cầu chuyển tiền mang tên Lê Kim L; 01 (Một) hộp giấy màu trắng có dòng chữ VSMART Joy 1+ có chứa: 01 (Một) cân tiểu ly điện tử, 01 (Một) quẹt lửa, 03 (Ba) đoạn ống hút, 17 (Mười bảy) túi nylon được hàn kín 2 đầu có kích thước và hình dáng khác nhau. Tiếp tục kiểm tra trong người Lê Kim L, Cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ:
02 điện thoại di động, 6.400.000đ (Sáu triệu bốn trăm ngàn đồng), 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim L, 01 (Một) giấy chứng nhận xe mô tô, mang tên Trần Thiện D, 03 (Ba) phiếu yêu cầu dịch vụ mang tên Lê Kim L và thu giữ 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát xxCx- xxxxx.
Tại bản kết luận giám định số 567/KLGĐ-PC09, ngày 30/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, kết luận:
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong túi ny lông màu trắng (trong phong bì số1) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 2,48 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong 05 túi ny lông màu trắng (trong phong bì số 2) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Ketamine, có khối lượng là 1,43 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong 09 túi ny lông màu trắng (trong phong bì số 3) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 22,40 gam.
- 52 viên nén màu xanh (không rõ hình) bên trong túi ny lông màu trắng, (trong phong bì số 4) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng là 15,12 gam.
- Chất rắn, dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong túi ny lông màu trắng (trong phong bì số 5) gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 23,13 gam.
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tổng khối lượng chất ma túy Methamphetamine và MDMA là: 2,48 gam + 22,40 gam + 15,12 gam + 23,13 gam = 63,13 gam. Khối lượng chất ma túy Ketamine là 1,43 gam.
Căn cứ Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu của từng chất là: (63,13gam/100gam x 100%) + (1,43/300gam x 100%) = 63,6% nên tổng khối lượng của các chất ma túy trên thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Lê Kim L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Ngoài ra, bị cáo L còn khai nhận vào khoảng tháng 03/2019 đến ngày bị bắt, Lê Kim L đã bán ma túy cho Nông Văn T 03 lần, số lượng 03 túi ma túy “đá”, số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng); Đinh Văn T 03 lần, số lượng 03 túi ma túy “đá”, số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng). Lần gần nhất L bán ma túy cho T vào ngày 26/6/2019. Lời khai của bị cáo Lê Kim L phù hợp với lời khai của Đinh Văn T và Nông Văn T và phù hợp với kết luận giám định số 597/KLGĐ-PC09 ngày 16/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi đã trích xuất dữ liệu di động bên trong điện thoại Samsung, màu vàng của Lê Kim L “ngày 26/6/2019 có 04 cuộc gọi đến từ số điện thoại “xxxxxxxxxx T T”; trích xuất dữ liệu di động trong điện thoại Nokia, màu xanh – đen của Đinh Văn T có 03 cuộc gọi đi T gọi cho số điện thoại “yyyyyyyyyy L” (BL48-97).
Bị cáo Lê Kim L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì vụ lợi bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy đá cho Ngô Văn C, Đinh Văn T, Nông Văn T. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần tuyên phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc để răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Lê Kim L: Bị cáo Lê Kim L đã 07 lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Nông Văn T, Đinh Văn T và Ngô Văn C (trong đó, bán ma túy cho Nông Văn T 03 lần, Đinh Văn T 03 lần, Ngô Văn C 01 lần). Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”.
[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Lê Kim L: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng cho bị cáo.
[6] Đối với người tên Hoàng Văn D: Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng không xác định được người tên Hoàng Văn D (tên gọi khác D), sống tại chợ M, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Kiểm tra nhật ký điện thoại trong ngày 27/6/2019 của bị cáo L không có cuộc gọi có tên "D"; trích xuất dữ liệu điện thoại di động của L, từ 7h00’ đến 14h20’ ngày 27/6/2019 thì Lê Kim L không xác định được số điện thoại mà D đã gọi đến cho L; trích xuất dữ liệu điện thoại của L và T, trong nhật ký cuộc gọi đi và đến không tìm thấy T liên lạc với số điện thoại nào tên D và L không có cuộc gọi cho "D" vào ngày 26/6/2019. Đồng thời, Cơ quan điều tra cũng đã tiến hành điều tra nhưng không xác minh được nhân thân, lai lịch, địa chỉ của người tên Hoàng Văn D. Do đó, không có cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự đối với người tên Hoàng Văn D như bị cáo khai là có căn cứ. [7] Đối với 01 (một) xe mô tô màu xanh, nhãn hiệu Wave Alpha, mang biển kiểm soát xxCx-xxxxx của anh Trương Hồng A, theo anh Hồng A khai là cho em ruột Trương Văn H mượn nhưng H đã thế xe và không nói cho anh biết thế ở đâu, hiện nay H đi làm ăn ở Đà Nẵng nhưng không biết rõ địa chỉ. Cơ quan điều tra cũng đã xác minh hiện nay anh H không có mặt tại địa phương, gia đình cũng không liên lạc được. Xe mô tô màu xanh, nhãn hiệu Wave Alpha, mang biển kiểm soát xxCx-xxxxx, Lê Kim L khai nhận do Hoàng Văn D đưa cho L từ khoảng tháng 6/2019 để sử dụng vào việc mua bán ma túy cho D nhưng chưa có cơ sở kết luận. Do đó, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi đề nghị cần xác minh làm rõ nguồn gốc phương tiện trên sẽ xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp nên được chấp nhận.
[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
- 01 (Một) phong bì được niêm phong bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong chứa chất ma túy hoàn lại sau giám định, gồm: 44,5 gam ma túy, loại Methamphetamine; 13,5 gam ma túy, loại MDMA; 1,15 gam ma túy, loại Ketamine; tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (Một) điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu SAMSUNG của bị cáo Lê Kim L; đây là phương tiện bị cáo L sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- 01 (Một) điện thoại di động màu xanh - đen, nhãn hiệu ITEL; 01 (Một) điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu ITEL của bị cáo Lê Kim L; bị cáo L không sử dụng làm phương tiện mua bán ma túy nên trả lại cho bị cáo L.
- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh đen, model: TA-1034, Imei1: 352892102898156, Imei2: 352892103898155 và 01 (Một) thẻ sim Viettel có dãy số 8984004800002061563 của Đinh Văn T; đây là phương tiện T sử dụng liên lạc với L để mua ma túy nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.400.000 (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Lê Kim L không liên quan đến việc mua bán ma túy nên trả lại cho bị cáo L.
- 01 (Một) túi xách màu nâu, trên bề mặt túi xách có chữ Jeep; 01 (Một) ốp lưng điện thoại di động, phía sau ốp lưng có in hình nghệ thuật (ảnh 1 nam, 1 nữ); 01 (Một) túi vải màu đen, dây kéo màu vàng; 01 (Một) hộp giấy màu trắng có dòng chữ VSMART Joy 1+; 01 (Một) cân tiểu ly điện tử; 01 (Một) quẹt lửa; 03 (Ba) đoạn ống hút; 17 (Mười bảy) túi nylon được hàn kín 2 đầu có kích thước và hình dáng khác nhau; 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng của Lê Kim L có liên quan đến việc phạm tội nên tuyên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim L; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thiện D, biển đăng ký xxCx-xxxxx không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Lê Kim L.
- Đối với số tiền 7.000.000 đồng bị cáo Lê Kim L đã bán ma túy cho Nông Văn T và Đinh Văn T, đây là tiền bị cáo mua bán ma túy mà có nên buộc bị cáo L phải nộp số tiền 7.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.
[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Luận cứ bào chữa của Luật sư không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Về án phí: Bị cáo Lê Kim L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Lê Kim L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Kim L 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 27/6/2019.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) phong bì được niêm phong bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi bên trong chứa chất ma túy hoàn lại sau giám định, gồm: 44,5 gam ma túy loại Methamphetamine, 13,5 gam ma túy loại MDMA, 1,15 gam ma túy loại Ketamine; 01 (Một) túi xách màu nâu, trên bề mặt túi xách có chữ Jeep; 01 (Một) ốp lưng điện thoại di động, phía sau ốp lưng có in hình nghệ thuật (ảnh 1 nam, 1 nữ); 01 (Một) túi vải màu đen, dây kéo màu vàng; 01 (Một) hộp giấy màu trắng có dòng chữ VSMART Joy 1+; 01 (Một) cân tiểu ly điện tử; 01 (Một) quẹt lửa; 03 (Ba) đoạn ống hút; 17 (Mười bảy) túi nylon được hàn kín 2 đầu có kích thước và hình dáng khác nhau; 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng của Lê Kim L.
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu SAMSUNG của bị cáo Lê Kim L; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh đen, model: TA-1034, Imei1: 352892102898156, Imei2: 352892103898155 và 01 (Một) thẻ sim Viettel có dãy số 8984004800002061563 của Đinh Văn T.
- Trả lại cho bị cáo Lê Kim L: 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim L; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thiện D, biển đăng ký xxCx-xxxx; 01 (Một) điện thoại di động màu xanh - đen, nhãn hiệu ITEL và 01 (Một) điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu ITEL của bị cáo Lê Kim L.
(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/11/2019 giữa Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi và Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi).
- Buộc bị cáo Lê Kim L phải nộp lại số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) sung công quỹ nhà nước.
- Trả lại cho bị cáo Lê Kim L tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6.400.000 (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng). Tiếp tục tạm giữ số tiền 6.400.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) để đảm bảo cho việc thi hành án. Số tiền 6.400.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) đang được gửi tại tài khoản số 3949.0.1054192.00000 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
(Theo Uỷ nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 19/11/2019 giữa Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi và Kho bạc nhà nước tỉnh Quảng Ngãi).
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Kim L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Kháng cáo: Án sơ thẩm xử công khai, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 17/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 17/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về