Bản án 17/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2019/TLST- HS ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Sùng  A T - Sinh năm 1966 (Không xác định được ngày, tháng sinh) tại huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nơi cư trú: Thôn T, xã D, huyện B, tỉnh Lào Cai

Nghề  nghiệp:  Trồng  trọt;  Trình  độ  văn  hóa:  Không  biết  chữ;  Dân  tộc: H.Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Sùng A P (Đã chết) và bà Vù Thị M (Đã chết); Vợ là Lý Thị V (Đã chết); Bị cáo có 01 con sinh năm 2007; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2019, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bát Xát. “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cù Thúy Minh - Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. “Có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, Sùng A T mang theo 100.000 đồng và đi bộ từ nhà đến chợ xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai mục đích để mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến gần chợ xã Mường Hum, Sùng A T gặp một

người đàn ông không quen biết, Sùng A T hỏi người đàn ông này “Có hàng (tức Hêrôin) bán không?” người đàn ông này trả lời “Có, mua bao nhiêu?” thì Sùng A T nói “Bán cho 100.000 đồng” rồi lấy tiền đưa cho người đàn ông này. Người đàn ông nhận tiền và nói với Sùng A T “Đứng chờ tí nữa thả xuống đường cho mà nhặt”. Khoảng 10 phút sau người đàn ông này đi bộ qua chỗ Sùng A T đang đứng khoảng 05 mét và thả một gói giấy xuống đường, Sùng A T liền đi đến nhặt gói ma túy cất vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi về nhà. Khi đi đến khu vực Ủy ban nhân dân xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai thì Sùng A T bị tổ công tác của Công an huyện Bát Xát phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật. Tổ công tác Công an huyện Bát Xát thu giữ trong túi áo khoác bên trái đang mặc của Sùng A T một gói giấy trắng có dòng chữ màu đen, bên trong chứa chất bộ khô màu trắng, vón cục. Sùng A T khai nhận là Hêrôin mua về sử dụng.

Ngày 15/01/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát đã ra Quyết định trưng cầu giám định về chất ma túy số 21 đối với vật chứng đã thu giữ của Sùng A T. Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 16/01/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát với Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai đã xác định: 01 gói giấy trắng có dòng chữ màu đen bên trong chứa chất bộ khô trắng, vón cục thu giữ của Sùng A T ngày 15/01/2019 có khối lượng là 0,42 gam. Trích mẫu 0,08 gam để tiến hành giám định, còn lại 0,34 gam hoàn trả cơ quan trưng cầu.

Tại bản kết luận giám định số 58/GĐMT ngày 18/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai đã kết luận: 0,42 gam chất bộ khô màu trắng, vón cục thu giữ của Sùng A T ngày 15/01/2019 do Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Bát Xát gửi đến giám định là chất ma túy Heroine (Hêrôin).

Tại phiên tòa, bị cáo Sùng A T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, Sùng A T đi bộ đến khu vực chợ xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, mục đích tìm mua ma túy về để sử dụng. Bị cáo đã mua của người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Bị cáo cất giấu số ma túy vừa mua được vào túi áo khoác bên trái đang mặc và đi về nhà. Khi đi đến khu vực Ủy ban nhân dân xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai thì Sùng A T bị Tổ công tác của Công an huyện Bát Xát phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 07/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Sùng A T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Sùng A T về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Sùng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo với mức án từ 01  nămđến 01 năm 06 tháng tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,34 gam ma túy còn lại sau giám định.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà người bào chữa cho bị cáo Sùng A T trình bày quan điểm bào chữa: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Sùng A T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Sùng A T là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật hạn chế, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án 01 năm tù. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng, bản thân nghiện chất ma túy vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bát Xát, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Sùng A T: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Sùng A T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết xã hội và pháp luật, nhận thức được tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vào ngày 15/01/2019 bị cáo đã mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng mục đích để sử dụng. Theo kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, số ma túy thu giữ được của bị cáo Sùng A T có tổng khối lượng là 0,42 gam chất ma túy Hêrôin. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Sùng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

Đối với người đàn ông đã bán cho Sùng A T 0,42 gam ma túy tại khu vực chợ xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Do Sùng A T không biết rõ tên tuổi, địa chỉ của người đàn ông này ở đâu nên quá trình điều tra Cơ quan điều tra không có căn cứ để chứng minh làm rõ vì vậy không đề cập xử lý là phù hợp.

 [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, vì vậy cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, bị cáo là người lao động tự do, không có việc làm ổn định, là đối tượng nghiện ma túy nên không có tài sản và thu nhập gì. Vì vậy không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

 [6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 0,42 gam ma túy, sau khi trích mẫu giám định số ma túy còn lại là 0,34 gam đã được tái niêm phong theo quy định cần tịch thu tiêu hủy.

 [7] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Sùng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Sùng A T 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/01/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,34 gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định được tái niêm phong theo quy định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, trên một mặt bì niêm phong có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Sùng A T có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại thôn Mường Hum, xã Mường Hum, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”

 (Vật chứng thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07 tháng 3 năm 2019 giữa Công an huyện Bát Xát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát).

3. Về án phí:

Căn  cứ  vào  Điều  135  của  Bộ  luật  Tố  tụng  hình  sự;  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Sùng A T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;