Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ- TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2019/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXX- ST ngày 29 tháng 3 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2019/QĐST-DS ngày 18 tháng 4 năm 2019 giữa:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Doãn C, sinh năm 1971

Bị đơn: Chị Lê Thị H - Sinh năm 1975

Cùng HKTT: Số 18/270 phố B, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Doãn C trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 08/3/1997 tại UBND phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa và có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại phố B. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống và do đặc thù công việc nên anh phải thường xuyên vắng nhà.

Hin nay anh C đã chuyển về quê tại xã X, huyện T ở còn chị H và con vẫn ở nhà của vợ chồng tại phố B. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn vợ chồng cũng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Nay anh C xác định tình cảm giữa anh và chị H không còn, nên đề nghị Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Thanh Hoá giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê Thị H.

- Về con chung: Anh và chị Lê Thị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Hải L, sinh ngày 15/01/1997 và cháu Nguyễn Hà L, sinh ngày 20/9/2008. Hiện nay cháu Hà L đang ở cùng với mẹ tại nhà riêng của vợ chồng. Chị H đi bán hàng và có thu nhập. Nguyện vọng của anh C khi ly hôn giao cháu Hà L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/1 tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Còn cháu Hải L đã thành niên nên không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản: Anh Nguyễn Doãn C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn là chị Lê Thị H và tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Triệu tập chị H đến Toà án để tự khai cũng như tham gia phiên họp và hoà giải. Mặc dù nhận được thông báo hợp lệ nhưng chị H không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của anh C.

Toà án đã lập biên bản về việc đương sự vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng. Tại biên bản xác minh do địa phương cung cấp thể hiện: Anh Nguyễn Doãn C và chị Lê Thị Hảkết hôn năm 1997, có đăng ký kết hôn và tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại phố B. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào thì địa phương không nắm được. Hiện nay anh chị đã sống ly thân, chị H và cháu Hà L đang sống tại địa phương.

Anh C và chị H có 02 con chung tên là cháu Nguyễn Hải L, sinh năm 1997 và cháu Nguyễn Hà L, sinh năm 2008. Nay anh C có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Tại phiên tòa, anh C vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong đơn khởi kiện. Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ thời điểm thụ lý vụ án đến nay đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn: Tòa án đã thực hiện tống đạt hợp lệ nhiều lần đối với bị đơn nhưng chị H không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định.

Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Doãn C. Giao cháu Hà L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh C đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000đ đến khi cháu Hà L thành niên.

Về tài sản không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là chị Lê Thị H vắng mặt tại phiên tòa, chị H đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Anh C đề nghị Toà án tiến hành xét xử vụ án, nên Toà án căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt chị H là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Doãn C và chị Lê Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện.

Theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chung xây cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây anh C và chị H đã không còn tình cảm và trách nhiệm với nhau; Vợ chồng đã sống ly thân và hai bên không quan tâm đến cuộc sống của nhau.

Ti phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, động viên anh C nên suy nghĩ kỹ trước khi quyết định việc ly hôn nhưng anh C vẫn cương quyết xin ly hôn chị H. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập chị H nhiều lần để hòa giải nhưng chị H vẫn vắng mặt, chứng tỏ chị H không có thiện chí để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân giữa hai vợ chồng không đạt được.

Do đó nếu buộc anh, chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng không thể cải thiện được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Doãn C về việc xin ly hôn chị Lê Thị H.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Doãn C và chị Lê Thị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Hải L, sinh ngày 15/01/1997 và cháu Nguyễn Hà L, sinh ngày 20/9/2008. Nguyện vọng của anh C khi ly hôn giao cháu Hà L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng , anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/1 tháng kể từ tháng 5 năm 2019 cho đến khi cháu Hà L đủ 18 tuổi. Còn cháu Hải L đã thành niên nên không yêu cầu giải quyết.

Chị H không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia phiên hòa giải, không có ý kiến về con chung. Cháu Hải L đã thành niên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Tại bản tự khai, cháu Nguyễn Hà L khai: Chuyện hôn nhân là của người lớn, cháu sẽ không can thiệp vào vụ việc này. Nếu hỏi cháu muốn ở với ai, cháu xin trả lời là cháu sẽ ở với mẹ.

Hiện nay cháu Hà L đang ở với chị H tại nhà riêng của hai vợ chồng, chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Hà L từ trước đến nay. Chị H có khả năng lao động và có điều kiện chăm sóc cháu Hà L. Để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt, học tập cũng như nguyện vọng chính đáng của cháu Hà L, Hội đồng xét xử thấy việc giao cháu Hà L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con chung của anh C là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh C.

Giành cho chị Lê Thị H quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con nếu có yêu cầu.

[4] Về tài sản: Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng định kỳ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

- Về hôn nhân: Anh Nguyễn Doãn C được ly hôn chị Lê Thị H.

- Về con chung: Công nhận anh Nguyễn Doãn C và chị Lê Thị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Hải L, sinh ngày 15/01/1997 (Đã thành niên) và cháu Nguyễn Hà L, sinh ngày 20/9/2008. Giao cháu Hà L cho chị Hải trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung của anh C 3.000.000đ/ 1 tháng kể từ tháng 5 năm 2019 đến khi cháu Hà L đủ 18 tuổi.

Anh Nguyễn Doãn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Chị Lê Thị H có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con nếu có yêu cầu.

- Về tài sản: Anh Nguyễn Doãn C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh Nguyễn Doãn C phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai số AA/2017/0006694 ngày 03/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Thanh Hóa. Anh C phải nộp tiếp số tiền 300.000đ.

Về quyền kháng cáo: Anh C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;