Bản án 17/2019/DS-ST ngày 25/06/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 17/2019/DS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 10 và 25 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64/2019/TLST-DS ngày 20 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXX-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2019/QĐST-DS ngày 10 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Thanh P, sinh năm: 1977;

Nơi cư trú: Khóm B, thị trấn T, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm: 1995;

Nơi cư trú: Ấp L, xã A, huyện C, tỉnh An Giang, theo Văn bản ủy quyền ngày 07/5/2019.

- Bị đơn:

1. Bà Huỳnh Thị Đ, sinh năm: 1959;

2. Chị Dương Thị H, sinh năm: 1989;

Cùng nơi cư trú: Số 956, ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn bà Đ, chị H vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/02/2019, biên bản lấy lời khai ngày 25/4/2019 của anh Trần Thanh P; Biên bản hòa giải ngày 05/4/2019, ngày 25/4/2019 và trong quá trình xét xử:

* Nguyên đơn anh Trần Thanh P trình bày: Bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H là mẹ con, vào ngày 26/5/2017 bà Đ và chị H có đến Cửa hàng Thạnh Phú 2, do ông P làm chủ, tại khóm Tân Đông B, thị trấn Thanh Bình vay số tiền gốc là 17.570.000đ, việc bà Đ, chị H vay tiền để làm gì thì anh không biết. Căn cứ Hợp đồng vay tiền số 26052017 ngày 26/5/2017 anh cho bà Đ, chị H vay số tiền gốc 17.570.000đ, lãi suất là 2%/tháng, thời hạn vay là 15 tháng, mỗi tháng trả gốc, lãi là 1.522.000đ, thời gian bắt đầu trả nợ là ngày 26/6/2017 đến hạn cuối cùng là ngày 26/8/2018. Số tiền gốc là 17.570.000đ, lãi là 5.260.000đ, tổng cộng là 22.830.000đ.

Sau khi ký hợp đồng anh đã giao đủ số tiền vay cho bà Đ, chị H, căn cứ biên nhận nhận tiền vay ngày 26/5/2017. Hợp đồng vay tiền và biên nhận nhận tiền vay đều ký kết tại cửa hàng của anh P, nội dung hợp đồng và biên nhận là do anh P soạn sẳn, bà Đ, chị H ký tên và ghi họ tên vào hợp đồng và biên nhận nhận tiền. Sau đó bà Đ, chị H trả được 12 tháng (kỳ) (đến ngày 26/5/2018) với số tiền là 15.220.000đ, còn lại 03 tháng (từ ngày 26/6/2018 đến 26/8/2018) với số tiền là 4.566.000đ. Bà Đ và chị H không trả nữa, hiện nay bà Đ, chị H còn nợ anh số tiền 4.566.000đ. Anh P có đến nhà nhiều lần nhưng bà Đ, chị H không chịu trả, hiện nay bà Đ, chị H vẫn còn sinh sống tại địa P và cư trú tại Số nhà 956, ấp 3, xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình.

Nay ông Trần Thanh P yêu cầu bà Đ, chị H liên đới trả lại số tiền còn nợ là 4.566.000đ (Bốn triệu, năm trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

* Bị đơn bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải 02 lần, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà Đ, chị H không cung cấp văn bản ý kiến về việc yêu cầu khởi kiện của anh P, cũng như tham dự phiên họp, hòa giải nên Tòa án không thu thập lời khai, ý kiến của bà Đ, chị H về việc yêu cầu khởi kiện của anh P.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Kim T đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh Trần Thanh P trình bày: Thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà Đ, chị H trả lại số tiền vay gốc là 3.513.000đ (còn lại 3 kỳ từ ngày 26/6/2018 đến ngày 26/8/2018) và tính theo lãi suất 1.66%/ tháng từ ngày 26/5/2018 đến khi xét xử là 12 tháng x 1.66%/tháng = 700.000đ, tổng cộng là 4.213.000đ. Cam kết chữ ký tên và chữ viết họ tên trong hợp đồng vay tài sản ngày 26/5/2017 đúng là chữ ký tên và chữ viết họ tên của bà Đ, chị H nếu sai sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, riêng đối với bị đơn bà Đ, chị H được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có văn bản trình bày ý kiến và vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần 1, 2 và quyết định đưa vụ án ra xét xử nên phải hoãn phiên tòa, như vậy bị đơn chưa thực hiện đúng Điều 70, 72 BLTTDS năm 2015, cần phê phán rút kinh nghiệm.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463, khoản 1 Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu của anh Trần Thanh P buộc bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H có trách nhiệm liên đới trả số tiền vay còn nợ gốc và lãi suất theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Do tranh chấp giữa cá nhân và cá nhân, bà Đ, chị H hiện nay đăng ký hộ khẩu thường trú ở ấp 3, xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn cư trú, nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về pháp luật tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bà Đ, chị H vắng mặt lần thứ hai, Hội đồng xét xử xét thấy bà Đ, chị H đã được triệu tập hợp lệ đúng theo quy định, nhưng bà Đ, chị H vẫn vắng mặt, không có lý do. Nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của bị đơn theo địa chỉ bị đơn ghi trong hợp đồng vay tiền, tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp cho bà Đ và bà Đ nhận thay cam kết giao lại cho chị H (do chị H là con ruột của bà Đ), nhưng bà Đ, chị H không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, cũng như phiên tòa, đã chứng minh được bị đơn cố tình vắng mặt, không có ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ, chị H là phù hợp và đúng theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 và điểm b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ pháp luật: Căn cứ Hợp đồng vay tiền ngày 26/5/2017, anh P khởi kiện yêu cầu bà Đ, chị H trả lại số tiền vay còn nợ là 3.513.000đ (Ba triệu, năm trăm mười ba nghìn đồng) và lãi suất 1.66%/tháng, vì cho rằng bà Đ, chị H vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên làm phát sinh tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về pháp luật áp dụng: Hợp đồng vay tiền đã được ký kết vào ngày 26/5/2017, nên Hội đồng xét xử áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

[5] Về nội dung vụ án: Anh Trần Thanh P khởi kiện yêu cầu bà Đ, chị H trả lại số tiền vay gốc 3.513.000đ (Ba triệu, năm trăm mười ba nghìn đồng) và lãi suất 1.66%/tháng phù hợp với quy định pháp luật là có cơ sở chấp nhận, căn cứ vào hợp đồng vay tiền và biên nhận nhận tiền ngày 26/5/2017, việc anh P cho bà Đ, chị H vay tiền là có thật đã xảy ra, bà Đ, chị H đã nhận đủ tiền vay, nhưng không thực hiện đúng theo thỏa thuận hợp đồng trả gốc lãi hàng tháng, từ khi vay cho đến nay bà Đ, chị H chỉ trả được số tiền 15.220.000đ, từ tháng 6/2018 đến nay bà Đ, chị H không trả tiền gốc lãi cho anh P nên đã vi phạm hợp đồng vay tiền ngày 26/5/2017. Do vậy yêu cầu khởi kiện của anh P là có cơ sở chấp nhận nên buộc bà Đ, chị H trả lại số tiền vay gốc 3.513.000đ (Ba triệu, năm trăm mười ba nghìn đồng) và lãi suất 1.66%/tháng với số tiền là 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) phù hợp với quy định tại Điều 463, 468 BLDS năm 2015.

Do bà Đ, chị H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, bà Đ, chị H không có văn bản trình bày ý kiến về việc khởi kiện của anh P, cũng như cung cấp chứng cứ chứng minh về việc có nợ của anh P hay không, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét ý kiến hay yêu cầu của bà Đ, chị H đối với số tiền nợ nêu trên.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

- Bị đơn bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

- Nguyên đơn anh Trần Thanh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử do đó được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ vào các Điều 463, 466, 468, khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015;

+ Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Thanh P đối với bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H.

Buộc bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H có trách nhiệm liên đới trả lại cho anh Trần Thanh P số tiền vay còn nợ 4.213.000đ (Bốn triệu, hai trăm mười ba nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2/ Về án phí:

- Bà Huỳnh Thị Đ và chị Dương Thị H liên đới phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Anh Trần Thanh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho anh P toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số BH/2017- 0004596 ngày 19/02/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (25/6/2019). Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2019/DS-ST ngày 25/06/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:17/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;