Bản án 17/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 17/2018/HS-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 349/2017/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thanh T1; sinh năm: 1995; hộ khẩu thường trú: Khu phố H, Thị Trấn T, huyện C, Tỉnh Long An; chỗ ở: Ấp S, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bán quần áo; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thanh H; và bà: Nguyễn Thị Mỹ C; chồng: Nguyễn Tuấn V; có 03 người con (lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh ngày 02/10/2017); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 28/04/2017, đến ngày 01/05/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)

Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị Mỹ C, sinh năm 1962. (Vắng mặt)

2. Anh Lê Hải T, sinh năm 1988. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Nguyễn Thị Thanh T1 tham gia mua bán trái phép ma túy tổng hợp (hàng đá) từ đầu tháng 3/2017 đến ngày 28/04/2017 thì bị bắt. Nguồn ma túy tổng hợp (hàng đá) T1 mua của người thanh niên tên Dũng (không rõ lai lịch) rồi bán lại cho người sử dụng ma túy để kiếm lời. T1 mua của Dũng với giá góc tư là 900.000 đồng đem bán lại giá 1.500.000 đồng, mua giá hộp 10 là 6.000.000 đồng, đem bán giá 7.300.000 đồng.

Khoảng 13 giờ ngày 28/4/2017, Nguyễn Thị Thanh T1 đang ở nhà tại địa chỉ: Ấp S, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì nhận được điện thọai của người phụ nữ tên Pi (chưa rõ lai lịch) gọi đến số điện thoại 0904075220 của T1, hỏi mua hộp 10 (l0g) ma túy đá với giá 7.300.000 đồng và hẹn đến trước khu vực khách sạn HA trên đường số 18, khu phố 3, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện việc mua bán. T1 đồng ý rồi bỏ hộp 10 (10g) ma túy đá vào trong túi xách màu xám đen và gọi anh Lê Hải T2 là chạy xe ôm Grab chở T1 đến điểm đã hẹn để thực hiện việc mua bán ma túy với Pi. Đến khoảng 13 giờ 30 cùng ngày, khi T1 đưa ma túy đến trước khách sạn H (đối diện khách sạn HA), đường M, khu phố B, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, chờ đối tượng Pi đến để thực hiện việc mua, bán ma túy này, thì bị lực lượng cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy của Công an quận Thủ Đức bắt quả tang, thu giữ: 01 túi xách màu xám đen bên trong có 01 gói nylon hàn kín kích thước 4 x 7,5cm bên trong có chứa tinh thể không màu được gói trong khăn giấy màu trắng và 01 gói nylon hàn kín kích thước 4 x 4cm bên trong có chứa tinh thể không màu được bỏ trong hộp thiếc màu xanh ghi chữ “Mentos” do Nguyễn Thị Thanh T1 đang đeo; 01 Điện thoại di động hiệu OPPO màu   đen số thuê bao 0904075220,01222358632.

- Khám xét nơi ở của T1 tại số ấp S, xã V, huyện B, Thành phố Hồ ChíMinh thu giữ 02 ống thủy tinh chữ L (bên trong không chứa gì).

Tại cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Thị Thanh T1 đã khai nhận hành vi mua bán ma túy như trên.

Tại bản kết luận giám định số 874/KLGĐ-H ngày 14/6/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Thanh T1 và hình dấu Công an phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 11,1983 gram loại Methamphetamine.

Vật chứng của vụ án:

+ 01 gói niêm phong ghi vụ số 874 có chữ ký GĐV Lê Tấn Đức bên trong ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 hộp thiếc màu xanh ghi chữ “Mentos”.

+ 01 Điện thoại di động hiệu OPPO màu đen số thuê bao 0904075220, 01222358632.

+ 01 túi xách màu xám đen.

+ 02 ống thủy tinh chữ L.

Đối với anh Lê Hải T2 là người chạy xe ôm Grab không biết chở T1 đi bán ma túy nên không có căn cứ xem xét xét trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số 24/2017/CT-VKS ngày 27/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điểu 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, cùng tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo T1 không tranh luận hoặc bào chữa gì.

Bị cáo T1 nói lời sau cùng: xin giảm nhẹ hình phạt để nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý, với số ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 11,1983 gram loại Methamphetamine Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 đã phạm “Tội mua bán trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ vụ lợi mà bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán chất ma túy, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Bị cáo khai đã nhiều lần thực hiện hành vi mua bán ma túy nhưng ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác, vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc bằng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội đang có thai, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm l, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 874 có chữ ký GĐV Lê Tấn Đức bên trong ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 01 hộp thiếc màu xanh ghi chữ “Mentos”, 01 túi xách màu xám đen, 02 ống thủy tinh chữ L không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 Điện thoại di động hiệu OPPO màu đen số thuê bao 0904075220, 01222358632 là công cụ, phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 phạm “Tội mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm l, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 28/04/2017 đến ngày 01/05/2017.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 874 có chữ ký GĐV Lê Tấn Đức bên trong ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp thiếc màu xanh ghi chữ“Mentos”, 01 túi xách màu xám đen, 02 ống thủy tinh chữ L.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 Điện thoại di động hiệu OPPO màu đen số thuê bao 0904075220, 01222358632. (Phiếu nhập kho số 47 ngày 17/01/2018, của Chi cục Thi hành án dân sựquận Thủ Đức).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T1 chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:17/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;