TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 17/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 26/9/2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2018/TLST-HNGĐ ngày 13/3/2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/8/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2018/QĐST-HNGĐ ngày 18/9/2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều H - Sinh năm: 1982. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Trần Anh T (tên gọi khác: Trần Văn T) - Sinh năm: 1980. Vắng mặt lần hai.
Cùng cư trú tại: Số nhà M, đ ường C, tổ M, thị Q, huyện Q, tỉnh G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều H trình bày:
Chị và chồng là anh Trần Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện không bị ép buộc và có đăng ký kết hôn vào ngày 24/10/2005 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Q, huyện Q, tỉnh G. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuấn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung trong công việc làm ăn và nuôi dạy con cái, từ đó vợ chồng thường sảy ra cãi chửi nhau, bản thân chị đã cố gắng chịu đựng để duy trì hạnh phúc vợ chồng để cùng nhau nuôi dậy con cái nhưng mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục được ngày càng trầm trọng hơn, mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên can thiệp hòa giải nhưng không có kết quả, vợ chồng sống ly thân từ tháng 4 năm 2017 cho đến nay. Quá trình sống ly thân hai vợ chồng không quan tâm đến nhau và không có các động thái hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xác định tình cảm không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng chị được ly hôn.
Về nuôi con chung: Hai vợ chồng có 02 con chung là cháu Trần Nguyễn Xuân Q (tên gọi khác: Trần Tuấn T1), sinh ngày 06/4/2007 và cháu Trần Đức V, sinh ngày 29/01/2015, hiện nay cả hai cháu đang ở cùng với chị. Khi ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc cả 02 con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Trần Anh T (tên gọi khác: Trần Văn T) vắng mặt, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa làm việc, không nộp bản tự khai và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan trong vụ án cho Tòa án, Tòa án đã niêm yết văn bản tố tụng tại chính quyền địa phương nơi anh T cư trú và Tòa án cũng đã gửi văn bản tố tụng cho mẹ đẻ của anh T, mẹ đẻ anh T đã nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho anh T được biết việc chị H yêu cầu ly hôn anh T, mẹ đẻ anh T liên lạc qua điện thoại cho anh T nhưng anh T vẫn che giấu địa chỉ, trốn chánh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Do vậy căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang vẫn tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang:
+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án thu thập chứng cứ chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng thời hạn nội dung thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với phiên phiên tòa dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình chấp hành tốt Nội quy phiên tòa. Bị đơn không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của bị đơn về việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án quy định tại Điều 70 BLTTDS.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 147 BLTTDS điểm b khoản 2 Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82,83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kiều H đối với anh Trần Anh T về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
Về con chung: Giao cháu Trần Nguyễn Xuân Q (tên gọi khác: Trần Tuấn T1), sinh ngày 06/4/2007 và cháu Trần Đức V, sinh ngày 29/01/2015 cho chị Nguyễn Thị Kiều H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc cho đến khi các cháu đủ18 tuổi. Anh Trần Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn.
Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết giải quyết.
Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Kiều H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, lời trình bày của các đương sự và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:
[1] Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án do chị Nguyễn Thị Kiều H có đơn yêu cầu ly hôn, căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền theo cấp xét xử thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Trần Anh T có nơi cư trú là số nhà M, đường C, M, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh G, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thẩm quyền theo lãnh thổ là Tòa án nơi bị đơn cư trú nên Tòa án nhân dân huyện Q thụ lý là đúng thẩm quyền.
Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án mẹ đẻ anh T nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đều thông báo qua điện thoại cho anh T nhưng anh T vẫn không có mặt và cũng không có ý kiến gì về việc chị H yêu cầu ly hôn, hơn nữa Tòa án đã thực hiện việc niên yết công khai văn bản tố tụng đối với anh T theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự. Xét thấy Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện Bắc Quang vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kiều H và anh Trần Anh T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 24/10/2005 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Q, huyện Q, tỉnh G nên hôn nhân giữa chị H và anh T là hợp pháp.
Xét tình trạng hôn nhân: Quá trình chung sống chị H và anh T phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung trong công việc làm ăn và nuôi dạy con cái, từ đó vợ chồng thường sảy ra cãi chửi nhau, hai bên không còn có sự tôn trọng, chia sẻ, tạo điều kiện giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong công việc hàng ngày. Mâu thuẫn đã thường xuyên xảy ra căng thẳng mặc dù đã được gia đình can thiệp hòa giải n H vẫn không sửa chữa khắc phục, không cải thiện tốt quan hệ vợ chồng, khả năng đoàn tụ không còn, vợ chồng sống ly thân từ tháng 4 năm 2017. Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho anh T nhưng anh T vẫn vắng mặt, không có ý kiến về yêu cầu ly hôn của chị H. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo biên bản xác minh ngày 07 tháng 8 năm 2018 thể hiện do anh T đi làm ăn xa nên địa phương không rõ nguyên nhân mâu thuẫn . Tuy không rõ nguyên nhân mâu thuẫn, nhưng thực tế thời gian sống ly thân đã lâu, anh T không quan tâm cuộc sống hôn nhân. Chị H xác định không còn tình cảm với anh T, vợ chồng không hòa thuận, không thể tiếp tục chung sống với nhau, kiên quyết xin ly hôn. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị H không tạo điều kiện để tiếp tục chung sống. Cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả hai không quan tâm, chăm sóc đến nhau . Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.
[3] Về nuôi con chung: Thời gian chung sống, vợ chồng có 02 con chung Trần Nguyễn Xuân Q (tên gọi khác: Trần Tuấn T1), sinh ngày 06/4/2007 và Trần Đức V, sinh ngày 29/01/2015. Xét thấy, chị H đang trực tiếp nuôi con chung, về điều kiện thu nhập đảm bảo nuôi con, nguyện vọng của Nguyễn Xuân Q được sống cùng chị H, quá trình giải quyết vụ án anh T không có mặt nên không có ý kiến gì. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận giao hai con chung cho chị H được trực tiếp nuôi, chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Trần anh T được quyền đi lại thăm nom các con chung không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.
[4] Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Do vậy HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều H phải chịu án phí theo quy định của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, 57, 68, 69, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 điều 147, khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều H. Chị Nguyễn Thị Kiều H được ly hôn anh Trần anh T (Tên gọi khác: Trần Văn T).
Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Kiều H là người trực tiếp nuôi hai con chung là Trần Nguyễn Xuân Q (tên gọi khác: Trần Tuấn T1), sinh ngày 06/4/2007 và Trần Đức V, sinh ngày 29/01/2015 cho đến khi Trần Nguyễn Xuân Q và Trần Đức V đủ 18 tuổi. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung chị H, anh T có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về Án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo biên lai số 03403, ngày 13/3/2018.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn. Tòa án báo cho các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 26/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 17/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về