Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 17/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 12 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2018 về việc yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 8A/2018/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị H , sinh năm 1977;

Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn Trần Phú, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Bị đơn: Anh Đặng Văn Đ , sinh năm 1976;

Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn Trần Phú, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

(Chị H , anh Đ đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 01 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:

Chị và anh Đặng Văn Đ tổ chức lễ cưới và tự nguyện về chung sống cùng nhau như vợ chồng từ tháng 11 năm 1996, do còn trẻ, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên anh chị không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống hạnh phúc đến tháng 11 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do con trai của chị và anh Đ là Đặng Văn T, sinh ngày 14/3/2007 bị bệnh hiểm nghèo qua đời, nhưng chị không còn khả năng sinh con nên anh Đ đã đi quan hệ với người phụ nữ khác làm cho gia đình bất H , anh chị thường xuyên xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn giữa chị và anh Đ đã được hai bên gia đình H  giải nhưng không có kết quả, từ tháng 11 năm 2015 đến nay chị đã sống ly thân với anh Đ , không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Nay chị nhận thấy tình cảm giữa chị và anh Đ không còn, chị đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Đ .

Chị và anh Đặng Văn Đ  có một con chung là Đặng Thị H , sinh ngày 30 tháng 7 năm 1997. Hiện con H  đã trưởng thành, có cuộc sống riêng và công việc ổn định, không có nhược điểm về thể chất tinh thần, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề con chung.

Chị và anh Đặng Văn Đ  không đi vay và không cho ai vay nợ chung, đã tự thỏa thuận phân chia tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

* Trong quá trình xét xử, bị đơn anh Đặng Văn Đ trình bày:

Anh và chị Trần Thị H  tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống và tự nguyện về chung sống cùng nhau từ tháng 11 năm 1996 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Đến tháng 11 năm 2015 thì anh và chị H  sống ly thân do chị H  không còn khả năng sinh thêm con nên anh có đi quan hệ với người phụ nữ khác làm cho gia đình có mâu thuẫn, bất H . Nay chị Trần Thị H đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị H  và anh, anh xét thấy tình cảm giữa anh và chị H  không còn nên cũng đồng ý với đề nghị của chị H  đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh và chị Trần Thị H .

Anh và chị Trần Thị H  có một con chung là Đặng Thị H , sinh ngày 30 tháng 7 năm 1997. Hiện con H  đã trưởng thành, có cuộc sống riêng và công việc ổn định, không có nhược điểm về thể chất tinh thần, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề con chung.

Anh và chị Trần Thị H  không đi vay và không cho ai vay nợ chung, và đã tự thỏa thuận phân chia tài sản chung do vậy anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

* Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện: Anh Đặng Văn Đ và chị Trần Thị H có đăng ký hộ khẩu thường trú và thường xuyên sinh sống tại Thôn Trần Phú, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Năm 1996 anh Đ và chị H được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và về chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2009, con trai của anh Đ và chị H mắc bệnh hiểm nghèo qua đời nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do chị H không còn khả năng sinh con dẫn đến giữa anh chị có mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã. Từ tháng 11/2015 chị H bỏ về ở nhà bố mẹ đẻ ở cùng thôn Trần Phú, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Anh Đ và chị H sống ly thân từ đó đến nay.

Về con chung: Anh Đ  và chị H  có hai con chung là Đặng Thị H , sinh năm 1997, đã trưởng thành, không có nhược điểm về thể chất và tâm thần và con Đặng Văn Thành (đã mất).

Về việc anh Đ và chị H có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật hay không, Ủy ban nhân dân xã Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình cung cấp: Hiện nay Ủy ban nhân dân xã Đ không còn sổ lưu trữ đăng ký kết hôn từ năm 2000 trở về trước nên không có cơ sở xác định chị Trần Thị H  và anh Đặng Văn Đ  có đăng ký kết hôn.

* Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT ngày 06 tháng 01 năm 2016 xử không công nhận chị Trần Thị H  và anh Đặng Văn Đ  là vợ chồng; không đặt ra giải quyết về con chung và tài sản chung; chị Trần Thị H   phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Trần Thị H  có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Đặng Văn Đ , anh Đặng Văn Đ hiện cư trú tại thôn P, xã Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị H  và anh Đặng Văn Đ  chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1996, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2015 đến nay. Theo khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Nay chị Trần Thị H  yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Đặng Văn Đ, căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị H .

[3] Về nuôi con chung: Chị Trần Thị H  và anh Đặng Văn Đ  có một con chung là Đặng Thị H, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1997. Hiện con H  đã trưởng thành, có cuộc sống riêng và công việc ổn định, không có nhược điểm về thể chất tinh thần, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề con chung.  Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Về chia tài sản: Chị Trần Thị H và anh Đặng Văn Đ không yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị H  phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị H  và anh Đặng Văn Đ  có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị H và anh Đặng Văn Đ .

2. Về nuôi con chung: Không đặt ra giải quyết.

3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị H  phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị H  đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0006908 ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình sang thành tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị H  và anh Đặng Văn Đ  có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:17/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;