Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 07/03/2018 về tranh chấp ly hôn, yêu cầu nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 17/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, YÊU CẦU NUÔI CON

Ngày 07 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 162/2017/TLST - HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2017 về việc: “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2018/QĐXX-ST ngày 16 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị U, sinh năm 1986.

Trú tại: ấp B, xã V, huyện P, tỉnh B.

Bị đơn: Anh Lê Hữu T, sinh năm 1978.

Trú tại: ấp B, xã V, huyện P, tỉnh B.

(Chị Nguyễn Thị U, anh Lê Hữu T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02 tháng 10 năm 2017 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị U trình bày: Chị xây dựng hôn nhân với anh Lê Hữu T vào 2003 có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã nhau, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm. Nay tính tình không còn hợp với nhau, cuộc sống vợ chồng đã không còn hạnh phúc. Xét thấy hai vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên chị yêu cầu ly hôn với anh Lê Hữu T. Vợ chồng chị có 01 người con chung tên Lê Hữu N sinh ngày 14.10.2003, hiện cháu Hữu N đang sống cùng với chị. Nay chị yêu cầu được nuôi cháu Hữu N, yêu cầu anh Lê Hữu T cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về quan hệ tài sản chung chị Nguyễn Thị U xác định trong thời gian chung sống vợ chồng chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, về nợ chung vợ chồng chị không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng chị nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề trên.

Anh Lê Hữu T không có mặt theo thông báo triệu tập của Tòa án nên không thể thu thập chứng cứ từ lời khai từ anh Lê Hữu T.

Về chứng cứ Tòa án đã thu thập được: Bản tự khai của chị Nguyễn Thị U, biên bản lấy lời khai của chị Nguyễn Thị U, giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của cháu Lê Hữu N, Biên bản lấy lời khai cháu Toán, biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T; Đơn xin xác nhận nơi cư trú của anh Lê Hữu T, sổ hộ khẩu.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình đúng theo quy định của Pháp luật. Nguyên đơn cũng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị U có đơn xin xét xử vắng mặt, đối với bị đơn anh Lê Hữu T đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa, tuy nhiên anh Lê Hữu T đã vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy đề nghị căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị xét xử vắng mặt đối với anh Lê Hữu T, chị Nguyễn Thị U. Từ đó đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị gì về tố tụng cần khắc phục đối với vụ án.

Về nội dung: Chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T xây dựng hôn nhân có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nay xét thấy tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T đã trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa nên đề nghị căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị U đối với anh Lê Hữu T; Về con chung: Chị Nguyễn Thị U có yêu cầu nuôi cháu Lê Hữu N, do cháu Hữu N đang trực tiếp sinh sống cùng chị Nguyễn Thị U, trong thời gian ly thân anh Tín cũng không thăm nom cháu, vì vậy căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị giao cháu Hữu N cho chị Nguyễn Thị U nuôi dưỡng, giáo dục; Anh Lê Hữu T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật mỗi tháng là 650.000đ, anh Lê Hữu T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở. Về tài sản chung và nợ chung chị Út không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 02 tháng 10 năm 2017 chị Nguyễn Thị U có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Lê Hữu T và yêu cầu nuôi con chung; cùng ngày chị Nguyễn Thị U đã nộp tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và Tòa án đã thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long. Chị Nguyễn Thị U có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Lê Hữu T vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ, vì vậy căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với chị Nguyễn Thị U, anh Lê Hữu T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T xây dựng hôn nhân vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện không bị ai ép buộc, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Thanh vào ngày 24/10/2011 theo đúng quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Theo chị Nguyễn Thị U xác định quá trình chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa, cuộc sống vợ chồng đã không còn hạnh phúc, nên chị yêu cầu được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T tại địa phương ngày 28.10.2017 thì xác định được vợ chồng chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T phát sinh nhiều mâu thuẫn, tính tình không hòa hợp, nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn không hàn gắn lại được, hiện hai vợ chồng đã ly thân. Từ đó có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị U ly hôn với anh Lê Hữu T.

[3] Về quan hệ con chung: Thời kỳ hôn nhân thì giữa Chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T có 01 người con chung là cháu Lê Hữu N sinh ngày 14.10.2003. Chị Nguyễn Thị U yêu cầu được nuôi con và yêu cầu anh Lê Hữu T cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy cháu Hữu N đang chung sống với chị Nguyễn Thị U, trong thời gian ly thân anh Tín cũng không thăm nom cháu, nghề nghiệp chị Út mua bán, có thu nhập ổn định để nuôi dưỡng cháu, ngoài ra thì để đảm bảo cho tâm lý cháu phát triển ổn định, không phải thay đổi môi trường sống vì vậy tiếp tục giao cháu Hữu N cho chị Nguyễn Thị U nuôi dưỡng giáo dục. Theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vì vậy buộc anh Lê Hữu T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho cháu Hữu N mỗi tháng là 650.000đ, thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày thụ lý sơ thẩm là ngày 02.10.2017. Anh Lê Hữu T được phép thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị U không yêu cầu Tòa án giải quyết. Từ đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị U phải chịu 300.000đ. Về án phí cấp dưỡng nuôi con anh Lê Hữu T phải nộp 300.000đ.

[6] Từ những nhận định trên xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28, Điều 35, Điều 207 Điều 228, Điều 244, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình được sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị U và anh Lê Hữu T.

2. Về nuôi con chung:

2.1 Giao con chung cháu Lê Hữu N sinh ngày 14.10.2003 cho chị Nguyễn Thị U nuôi dưỡng.

2.2 Về cấp dưỡng nuôi con: anh Lê Hữu T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho cháu Lê Hữu N mỗi tháng là 650.000đ (Sáu trăm năm chục nghìn đồng), thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày thụ lý sơ thẩm là ngày 02.10.2017. Anh Lê Hữu T có quyền và nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị U không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị U phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), chị Nguyễn Thị U đã nộp tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0009970 ngày 02.10.2017 của Cơ quan thi hành án dân sự huyện Phước Long, chị Nguyễn Thị U đã nộp đủ.

Về án phí cấp dưỡng nuôi con anh Lê Hữu T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án theo Điều 6; quyền và nghĩa vụ theo các Điều 7, 7a, 7b; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 07/03/2018 về tranh chấp ly hôn, yêu cầu nuôi con

Số hiệu:17/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;