Bản án 17/2018/DS-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 17/2018/DS-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 04/2018/TLST-DS ngày12 tháng 01 năm 2018 về: “Tranh chấp hợp đồng vay tài  sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2018/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2018/QĐST-DS ngày 11 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng N.

Địa chỉ: số 02, Láng Hạ, quận Ba Đình, Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc Kh – Chủ tịch hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn L – Giám Đốc Ngân hàng N - chi nhánh B, Kiên Giang.

Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện Gi, tỉnh Kiên Giang.

Người được ủy quyền lại: Ông Lam Nhật Ch – sinh năm 1980, có mặt. Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện Gi, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Ông Đỗ Văn U – sinh năm 1976, vắng mặt.

Bà Phan Thị T – sinh năm 1976, vắng mặt. Địa chỉ: ấp K, xã Th, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Huỳnh Văn C – sinh năm 1992, có đơn xin vắng mặt. Chị Thái Thị Th – sinh năm 1990, có đơn xin vắng mặt. Địa chỉ: ấp K, xã Th, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý, nguyên đơn Ngân hàng N trình bày nội dung khởi kiện với các yêu cầu như sau:

- Ngân hàng N – Chi nhánh B có cho vợ chồng ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T vay số tiền 70.000.000 đồng, theo hợp đồng tín dụng số 41TD2155, ngày 12/5/2015 và giấy nhận nợ lần một vào ngày 12/5/2015, khoản tiền vay của giấy nhận nợ lần thứ nhất ông Út và bà Tú đã thanh toán cho Ngân hàng xong và được vay lại nên ông Út và bà Tú ký giấy nhận nợ lần 2 vào ngày 13/5/2016 mục đích vay bổ sung vốn trồng lúa, sửa nhà và chăn nuôi. Thời hạn vay là 12 tháng, hình thức trả nợ là trả lãi 06 tháng 01 lần và vốn gốc trả cuối kỳ; lãi suất thỏa thuận: Lãi trong hạn là 10,5%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Sau khi ký hợp đồng tín dụng ông

Đỗ Văn U và bà Phan Thị T đã nhận đủ số tiền vay 70.000.000 đồng. Khi vay tiền ông Út và bà Tú có làm hợp đồng thế chấp tài sản gồm: Quyền sử dụng đất có diện tích 9.274m2 thuộc thửa số 1, tờ bản đồ số 2, đất tọa lạc tại ấp K, xã Th, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, toàn bộ diện tích đất trên được Ủy ban nhân dân huyện Gò Quao cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 018809 cho ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T đứng tên vào ngày 18/3/2014. Trong quá trình vay ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không trả nợ đúng cam kết, tính đến ngày 13/5/2017 số nợ vay của ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T đã quá hạn, hiện tại dư nợ gốc là 70.000.000 đồng và lãi phát sinh tính đến ngày 28/6/2018 là 16.251.667 đồng (trong đó lãi trong hạn là 3.634.167 đồng và lãi quá hạn là 12.617.500 đồng). Nay Ngân hàng N yêu cầu Tòa án buộc ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải trả hết số tiền nợ gốc là 70.000.000 đồng và lãi suất phát sinh tính đến ngày xét xử theo hợp đồng đã thỏa thuận là 16.251.667 đồng, tổng cộng bằng 86.251.667 đồng. Đồng thời Ngân hàng N yêu cầu ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ đã ký cho đến khi tất toán khoản vay. Trường hợp ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không trả đủ số nợ vay và lãi phát sinh cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

Bị đơn ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không có mặt tại phiên tòa. Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ kiện, kể từ khi thụ lý cho đến nay ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không có mặt ở địa phương được chính quyền địa phương xác nhận ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T bỏ địa phương đi đâu không rõ địa chỉ, Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo qui định tại Điều 179, 180 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T vẫn không không có mặt nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T trong vụ kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Huỳnh Văn C và chị Thái Thi Tha cùng trình bày: Ngày 10/5/2016 vợ chồng anh chị có nhận chuyển nhượng của ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T 02 công đất với giá là 80.000.000 đồng, hiện đã giao cho ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T 70.000.000 đồng, còn giữ lại 10.000.000 đồng thỏa thuận khi nào làm thủ tục sang tên xong sẽ trả hết số tiền còn lại. Khi chuyển nhượng hai bên có làm giấy tay nhở Trưởng ấp xác nhận, ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T nói chuyển nhượng đất cho vợ chồng anh chị để lấy tiền trả nợ cho Ngân hàng lấy bằng khoán về chuyển QSD đất cho vợ chồng anh chị nhưng ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T bỏ địa phương đi không làm thủ tục chuyển QSD đất cho vợ chồng anh chị. Hiện nay vợ chồng anh chị đã cất nhà ở trên phần đất đã mua của vợ chồng ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T, anh chị sẽ tự thỏa thuận với ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T về phần đất đã mua và anh chị không có yêu cầu độc lập trong vụ kiện này.

- Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N có ý kiến xin giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có ý kiến: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, vụ kiện còn trong thời hiệu. Xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; Việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa là không tuân thủ quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa Ngân hàng N với ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T là tranh chấp về dân sự được quy định tại Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T là bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ kiện, tuy nhiên khi ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T thực hiện giao dịch với ngân hàng ông bà có địa chỉ rõ ràng, đó cũng là nơi ông bà cư trú, hiện nay ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T vẫn còn hộ khẩu thường trú ở địa chỉ trên nên theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao và điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện là đúng pháp luật. Tòa án đã thực hiện các thủ tục niêm yết và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 179 và Điều 180 Bộ luật tố tụng Dân sự nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Anh Huỳnh Văn C và chị Thái Thị Th là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Chiến và chị Tha theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự. Qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đối chiếu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cho thấy giao dịch giữa các đương sự là thỏa thuận vay tài sản sản. Do vậy, khi các bên xảy ra tranh chấp thì căn cứ vào các quy định về hợp đồng vay tài sản để giải quyết là phù hợp pháp luật.

[4] Ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T là vợ chồng có cùng hộ khẩu, đây là hợp đồng có thế chấp tài sản do ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T cùng đứng tên vay và cùng ký nhận nợ, ký thế chấp, mục đích vay vốn là để sửa nhà, chăn nuôi và trồng lúa để phát triển kinh tế gia đình nên khi ngân hàng khởi kiện vợ chồng ông bà căn cứ Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 buộc ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T cùng phải có nghĩa vụ trả nợ chung.

[5] Tại hợp đồng tín dụng số 41TD2155, được ký kết ngày 12/5/2015 và giấy nhận nợ ngày 13/5/2016 giữa các bên có quy định về lãi suất, thời hạn vay, phương thức thanh toán nợ gốc và lãi. Những quy định trong hợp đồng không trái với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong thời gian thực hiện hợp đồng ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không thực hiện đúng cam kết, từ ngày 13/5/2017 cho đến nay bên vay là ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T đã vi phạm về thời hạn trả nợ nên căn cứ vào Điều 466 Bộ luật dân sự buộc ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải trả khoản nợ vay và lãi phát sinh cho ngân hàng là phù hợp. Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 41TD2155, được ký kết ngày 12/5/2015 giữa Ngân hàng N với ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T có nêu rõ các điều khoản thi hành và được công chứng chứng thực đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo giấy chứng hận quyền sử dụng đất số: BR 018809, được cấp ngày 18/3/2014, diện tích 9.274 m2 thuộc thửa số 1; tờ bản đồ số 2; đất tọa lạc ấp K, xã Th, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang là quyền sở hữu của ông Út và bà Tú. Vì vậy, Ngân hàng N yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo việc thu hồi nợ Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 7 Điều 323 Bộ luật dân sự Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng.

[6] Đối với giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T với anh Huỳnh Văn C và chị Thái Thị Th do anh Chiến và chị Tha không có yêu cầu độc lập trong vụ kiện này nên Hội đồng xét xử không xem xét, anh Chiến và chị Tha có quyền khởi kiện ông Út và bà Tú bằng một vụ kiện dân sự khác khi có phát sinh tranh chấp.

[7] Tại phiên tòa sau khi nghe lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N và đại diện Viện kiểm sát có quan điểm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải trả số tiền nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng, trường hợp ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo quyền, lợi ích hợ pháp của Ngân hàng, xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí DSST có giá ngạch: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí. Ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải nộp 4.313.000 đồng (86.251.667 đồng x 5%). Ngân hàng N không phải chịu án phí vì yêu cầu của ngân hàng được chấp nhận.Ngân hàng N được nhận lại 2.028.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên  lai thu số 0000210 ngày 12/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 26, 35, 147, 180, 192, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;

- Áp dụng Điều 323, 463, 466, 468 và 688 Bộ luật Dân sự;

- Áp dụng Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Áp dụng Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tóa án nhân dân Tối cao về hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS;

- Áp dụng Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.

1. Tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Xử: Buộc ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N 86.251.667 (tám mươi sáu triệu hai trăm năm mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi bảy) đồng, gồm có số tiền nợ gốc là 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng và lãi suất phát sinh tính đến ngày xét xử theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng là 16.251.667 (mười sáu triệu hai trăm năm mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi bảy) đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trường hợp ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 018809 do Ủy ban nhân dân huyện Gò Quao cấp ngày 18/3/2014, có diện tích 9.274m2 thuộc thửa số 1, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp K, xã Th, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang do ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T sở hữu để thu hồi toàn bộ số nợ trên.

Khi ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T trả hết số nợ đã vay và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có nghĩa vụ trả lại giấy chứng nhận QSD đất số BR 018809 do Ủy ban nhân dân huyện Gò Quao cấp ngày 18/3/2014 có diện tích 9.274m2 thuộc thửa số 1, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp K, xã Th, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang cho vợ chồng ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T. 

Anh Huỳnh Văn C và chị Thái Thị Th không có yêu cầu độc lập trong vụ kiện này nên Hội đồng xét xử không xem xét, anh Chiến và chị Tha có quyền khởi kiện ông Út và bà Tú bằng một vụ kiện dân sự khác khi có phát sinh tranh chấp.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5%: Ông Đỗ Văn U và bà Phan Thị T phải nộp 4.313.000 đồng.

Ngân hàng N được nhận lại 2.028.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000210 ngày 12/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

“Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7, Điều 7a, Điều 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2018/DS-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:17/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;