TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN KIẾN AN-THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 17/2017/HNGĐ-ST NGÀY 05/06/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 05 tháng 6 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 13/2017/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2017 về tranh chấp về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2017/QĐXX- ST, ngày 18 tháng 4 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 220/2017/QĐST-HNGĐ ngày 05/5/2017 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 88/2017/TB-TA ngày 10/5/2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Phạm Thị V, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Tổ 2, phường P, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Trần Ngọc T, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Tổ 2, phường P, phường Phù Liễn, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/12/2016, các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là Phạm Thị V trình bày:
Năm 1987 bà và ông Trần Ngọc T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Kiến An (nay là quận Kiến An), thành phố Hải Phòng ngày 28/10/1987. Sau khi kết hôn ông bà chung sống hạnh phúc được 09 năm, đến năm 1996 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về tính cách, lối sống, mất long tin yêu dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc; ông bà đã được bạn bè cũng như hai bên gia đình nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả. Năm 2015 bà đã có đơn xin ly hôn, được Tòa án hòa giải, bà rút đơn mong vợ chồng cải Trần Ngọc Tện quan hệ, hàn gắn mâu thuẫn nhưng không được. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Ngọc T.
Về con chung: Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T có 02 con chung là Trần Ngọc H, sinh ngày 14/6/1988 và Trần Thị Th, sinh ngày 15/12/1991. Hiện nay các con đều đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về tài sản chung: Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T không có tài sản chung, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Bị đơn là ông Trần Ngọc T: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về việc tiếp cận công khai tài liệu chứng cứ, Thông báo về việc thu thập chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Thông báo thời gian mở phiên tòa... nhưng ông Trần Ngọc T đều vắng mặt không có lý do, không cung cấp bản tự khai, không tham gia các phiên hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được, không có mặt tại phiên tòa. Tòa án nhân dân quận Kiến An đã tiến hành xác minh thu thập tài liệu chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại hai bên gia đình và chính quyền địa phương.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Kiến An phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, vi phạm quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho Phạm Thị V được ly hôn ông Trần Ngọc T; về con chung: Ông bà có 02 con chung là Trần Ngọc H, sinh ngày 14/6/1988 và Trần Thị Th, sinh ngày 15/12/1991 đều đã trưởng thành nên không không đặt ra vấn đề giải quyết; về tài sản chung: Phạm Thị V không đề nghị Tòa án giải quyết; Phạm Thị V là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thẩm quyền: Phạm Thị V có đơn xin ly hôn với ông Trần Ngọc T hiện cư trú tại số 23 Lưu Úc, Quy Tức 2, phường Phù Liễn, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp nêu trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
Về tố tụng: Tòa án nhân dân quận Kiến An đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Trần Ngọc T không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Trần Ngọc T và tại phiên tòa công bố các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Về quan hệ hôn nhân: Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T kết hôn năm 1987 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Thị trấn Kiến An, thành phố Hải Phòng ngày 28/10/1987. Vì vậy, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, hôn nhân giữa Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong quan điểm, lối sống, vợ chồng mất lòng tin với nhau; từ tháng 2/2016 ông bà đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế, bạn bè cũng như gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả. Qua xác minh, thu thập chứng cứ thể hôn nhân giữa hiện Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phạm Thị V, giải quyết cho Phạm Thị V được ly hôn ông Trần Ngọc T.
Về con chung: Phạm Thị V và ông Trần Ngọc T có 02 con chung là Trần Ngọc H, sinh ngày 14/6/1988 và Trần Thị Th, sinh ngày 15/12/1991 đều đã đủ tuổi trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ chung: Phạm Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Phạm Thị V là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về án phí và lệ phí Toà án. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phạm Thị V.
Về quan hệ hôn nhân: Phạm Thị V được ly hôn ông Trần Ngọc T.
Về án phí: Phạm Thị V phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 3257 ngày 19/01/2017 tại Chi cục Trần Ngọc T hành án dân sự quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; Phạm Thị V đã nộp đủ án phí.
Về quyền kháng cáo: Phạm Thị V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Trần Ngọc T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 17/2017/HNGĐ-ST ngày 05/06/2017 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 17/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/06/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về