Bản án 171/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 171/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2019/HSST ngày 08 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 241/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Tạ Thị D, sinh năm 1967 tại Hà Nam; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; tạm trú: Tầng 2 nhà số 20/43/30 H, phường D, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 01/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Văn H và bà Nguyễn Thị K (đều đã chết); tiền án, tiền sự, nhân thân: Án số 630/HSST ngày 23/11/1999 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; án số 240/HS ngày 22/5/2002 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đều đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ ngày 22/6/2019, tạm giam ngày 25/6/2019; có mặt.

2. Tạ Thị L, sinh ngày 16 tháng 7 năm 2002 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 777 T, thôn An Dương, xã A, huyện D, thành phố Hải Phòng; tạm trú: Tầng 2 nhà số 20/43/30 T, phường C, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T (đã chết) và bà Tạ Thị D; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 22/6/2019, tạm giam ngày 25/6/2019; có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Tạ Thị L: Ông Trần Văn T, sinh năm 1958; nơi cư trú: Số 777 T, thôn An Dương, xã A, huyện D, thành phố Hải Phòng, là bác ruột của bị cáo; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Tạ Thị L: Bà Đỗ Phương Thúy, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 20 phút ngày 21/6/2019, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Lê Chân, Hải Phòng trong khi làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực trước cửa nhà số 35 H, phường H, quận L, Hải Phòng đã phát hiện Tạ Thị L có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tiến hành kiểm tra, L tự giác lấy từ trong áo ngực đang mặc 01 bọc nilon màu đen bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine. Ngoài ra còn thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen đã cũ, 01 xe mô tô biển kiểm soát: 16N1- 0310 và số tiền 106.000đồng, sau đó đưa L cùng tang vật về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 432/KLGĐ(Đ6) ngày 04/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ khi bắt giữ Tạ Thị L là ma túy, có khối lượng 3,7405gam, là loại Heroine Tại cơ quan điều tra, Tạ Thị L khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 21/6/2019, khi L đang ngủ thì mẹ là Tạ Thị D gọi dậy. D đưa cho L 01 bọc nilon màu đen bên trong chứa Heroine và bảo mang đến nhà L ở ngõ H, quận L, Hải Phòng rồi nhận số tiền 2.800.000đồng là tiền bán ma túy về cho D. L cất bọc nilon đó vào trong áo ngực bên phải đang mặc như lời D dặn và điều khiển xe máy biển kiểm soát: 16N1-0130 đến ngõ H để giao ma túy. Khi đến nơi thì thấy nhà Liệu đóng cửa nên L đã gọi điện nói lại với D, sau đó quay xe đi về. Một lúc sau, D gọi điện bảo L quay lại giao ma túy vì Liệu đã về, khi L quay lại đến trước cửa số nhà 35 H thì bị lực lượng Công an phát hiện kiểm tra bắt giữ. L biết nhà Liệu là do đã có lần L đi cùng D, D vào nhà làm gì L không rõ, còn L đều đứng đợi ở bên ngoài. L biết D bán ma túy cách ngày bị bắt khoảng 03 tháng và thường để ma túy dưới gối trên giường của D. Ngày 21/6/2019, Tạ Thị D bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân.

Tại Cơ quan điều tra, D khai nhận: Trưa ngày 21/6/2019, Lê Thị L, sinh năm 1952, trú tại số 8 lô 18 L, phường H, L, Hải Phòng gọi điện thoại cho D hỏi mua 01 chỉ Heroine, D đồng ý và nói giá bán 2.800.000đồng, đồng thời hẹn giao ma túy vào lúc 14 giờ cùng ngày tại nhà Liệu. Sau đó, D đi bộ ra khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn rồi rẽ phải vào hành lang đường tàu hướng về phía C khoảng 30m đã gặp và mua của một nam giới không quen biết 01 chỉ Heroine với giá 2.600.000đồng. Mua xong, D cất vào túi quần bên phải đang mặc và đi về nhà lấy 01 mảnh túi nilon màu đen bọc bên ngoài rồi để dưới gối trên giường ngủ của mình.

Đến 14 giờ cùng ngày, D gọi L dậy, đưa cho L túi ma túy trên và dặn L mang đến nhà Liệu rồi cầm 2.800.000đồng về cho D. D dặn L cất giấu túi ma túy vào trong áo lót ngực. L đã cất giấu như lời D dặn và điều khiển xe đến nhà Liệu để giao ma túy. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày thì Cơ quan Công an đến khám xét chỗ ở của D, thu giữ 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, dạng bàn phím đã cũ. Ngoài ra, D khai ngày 21/6/2019 là lần đầu tiên D bán ma túy và cũng là lần đầu tiên D bảo L đi giao ma túy hộ D.

Tại Cáo trạng số 166/CT-VKS ngày 07 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố các bị cáo Tạ Thị D và Tạ Thị L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội D vụ án đã nêu trên.

Ý kiến của người đại diện hợp pháp của bị cáo Tạ Thị L: Việc bị cáo L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy là đã rõ nên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, do bị cáo L có hoàn cảnh gia đình éo le, bố chết sớm, mẹ đi chấp hành án phạt tù, phải ở với bác ruột từ lúc 03 tháng tuổi nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo L.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Tạ Thị L: Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng quy định của pháp luật. Về điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo L là éo le, bố chết sớm, mẹ đi chấp hành án phạt tù, năm 2017 bị cáo phải điều trị bệnh tại Bệnh viện tâm thần; khi phạm tội bị cáo chưa nhận thức đầy đủ, hành vi phạm tội là giản đơn, với vai trò giúp sức, khi bị kiểm tra đã tự nguyện giao vật chứng; nhân thân chưa tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; ông ngoại của bị cáo có công với cách mạng nên đề nghị HĐXX áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 91, 101, khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của Viện kiểm sát đề nghị.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Tạ Thị D mức án từ 05 năm đến 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 101, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Tạ Thị L mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo D không nghề nghiệp, không thu nhập ổn định, không có tài sản riêng; bị cáo L là người dưới 18 tuổi nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại sau giám định;

Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu trắng thu giữ của bị cáo D; 01 điện thoại di động Iphone thu giữ của bị cáo L;

Trả lại cho bị cáo D 01 điện thoại di động Nokia màu xanh và số tiền 106.000đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

Về án phí: Bị cáo D và bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; ông Trần Văn Tân có trách nhiệm nộp thay cho bị cáo L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. - Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, nội D bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 21/6/2019, bị cáo Tạ Thị D và bị cáo Tạ Thị L đã cùng nhau thực hiện hành vi cất giữ trái phép 3,7405g (ba phẩy bảy bốn không năm gam) Heroine với mục đích để bán kiếm lời, khi bị cáo Tạ Thị L đang trên đường mang ma túy đi bán thì bị bắt giữ tại khu vực trước cửa nhà số 35 H, phường H, quận L, Hải Phòng. Do vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận các bị cáo Tạ Thị D và Tạ Thị L đồng phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy vi phạm khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo: Bị cáo D là người khởi xướng, trực tiếp giao dịch mua bán ma túy, thỏa thuận về giá cả, thời gian và địa điểm giao ma túy, là người bỏ tiền để mua ma túy. Bị cáo L là người tiếp nhận ý chí của bị cáo D, là người thực hành tích cực, trực tiếp mang giao ma túy cho đối tượng mua và nhận tiền mang về cho bị cáo D. Do vậy, vai trò phạm tội của bị cáo D cao hơn vai trò phạm tội của bị cáo L.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, làm suy thoái đạo đức, lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy mà Nhà nước cấm cất giữ lưu hành dưới mọi hình thức, nhưng do hám lời các bị cáo đã cất giữ để bán lại, tội phạm các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và quyết tâm phạm tội cao nên cần xét xử các bị cáo một mức án nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[5] Bị cáo L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Đối với bị cáo D đã xúi giục bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo D phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình nên cần căn cứ vào điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là phù hợp.

[7] Về nhân thân:

Bị cáo L chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo D có 02 tiền án tuy đã được xóa án tích nhưng qua đó cho thấy bị cáo D không lấy đó làm bài học để cải tạo, tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo D cao hơn bị cáo L.

Đối với bị cáo L khi thực hiện hành vi phạm tội mới 16 tuổi 11 tháng 05 ngày, trong điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, lại bị người khác xúi giục, bản thân còn thiếu hoàn thiện về nhận thức và non nớt về kinh nghiệm sống. Vì vậy, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa những sai lầm để phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với bị cáo L là không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

- Về hình phạt bổ sung:

[8] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự thì bị cáo D có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền nhưng do bị cáo D không nghề nghiệp, không thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với bị cáo L, khi phạm tội là người dưới 18 tuổi nên theo quy định tại khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[9] Số ma tuý mà cơ quan Công an thu giữ khi bắt giữ các bị cáo, sau khi lấy đi giám định lượng còn lại xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

[10] Đối với 01 điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Nokia, dạng bàn phím đã cũ thu giữ của bị cáo D và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của bị cáo L, các bị cáo đã sử dụng để liên lạc trong việc giao dịch mua bán ma túy. Xét là công cụ phạm tội nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

[11] Đối với 01 điện thoại di động màu xanh nhãn hiệu Nokia, dạng bàn phím đã cũ thu giữ của bị cáo D, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo D nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[12] Đối với số tiền 106.000đồng thu giữ khi bắt giữ bị cáo L, tại phiên tòa các bị cáo đều khẳng định số tiền trên là của bị cáo D đưa cho bị cáo L để mua thuốc uống chữa bệnh. Xét là tài sản của bị cáo D, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo D nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về các vấn đề khác:

[13] Đối với Lê Thị L là người hỏi mua ma túy của D; qua xác minh tại địa chỉ số 8 lô 18 L, phường H, quận L, Hải Phòng, L sinh sống một mình, tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú ở số 2 T, tổ 8 L, quận K, Hải Phòng, Liệu vắng mặt không triệu tập được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[14] Đối với nam giới bán ma túy cho D vào trưa ngày 21/6/2019 do không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở điều tra.

[15] Việc L khai biết D bán ma túy trước khi bị bắt 03 tháng; còn D khai cách ngày bị bắt khoảng 03 tháng, D đã mua 01 túi nilon Heroine với giá 200.000đồng của một nam giới không quen biết ở khu vực đường tàu T mang về cất giấu dưới gối trên giường ngủ của mình để bán kiếm lời thì bị L phát hiện nên D đã vất đi đâu không nhớ. Ngoài lời khai của D, Cơ quan điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào khác nên không đủ cơ sở kết luận hành vi này của D.

[16] Chiếc xe máy biển kiểm soát: 16N1-0130 thu giữ của Tạ Thị L, L khai đã nhờ D mua hộ với giá 5.000.000đồng. Hiện nay, L chưa cung cấp được giấy đăng ký xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ, làm rõ xử lý sau.

[17] Về án phí: Bị cáo D và bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; ông Trần Văn Tân có trách nhiệm nộp thay cho bị cáo L.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Tạ Thị D 05 (năm) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 22 tháng 6 năm 2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 101, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Tạ Thị L 03 (ba) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 22 tháng 6 năm 2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói;

Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu trắng, dạng bàn phím đã cũ có số imel 1:357343084323578 thu giữ của bị cáo D; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, imel: 352015074143530 thu giữ của bị cáo L; Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh dạng bàn phím đã cũ có số imel: 352891101426993 thu giữ của bị cáo D và số tiền 106.000đồng (một trăm L sáu nghìn đồng) thu giữ khi bắt giữ bị cáo L để đảm bảo thi hành án cho bị cáo D.

(Theo đúng Biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 07 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Buộc bị cáo Tạ Thị D và bị cáo Tạ Thị L, mỗi người phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Ông Trần Văn Tân có trách nhiệm nộp thay cho bị cáo Tạ Thị L.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 171/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:171/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;