Bản án 170/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 170/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 71/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2021/QĐ-ST ngày 05 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 217/QĐ-TA ngày 23 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Liêu Kim O, sinh năm 1989; nơi cư trú: số 290C/43/12/2 đường D.B.Tr, phường B, Quận 8, Thành phố H.C.M; địa chỉ liên lạc nơi cư trú: số 48, đường số 01, khu dân cư Cityland P.H., phường A, Quận G, Thành phố H.C.M (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp M.H A, xã M.H Đ, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện đề ngày 27/01/2021, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Liêu Kim O, trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Minh T tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại Ủy ban nhân dân phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; vợ chồng sống chung hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn sống chung, ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên chị xin ly hôn với anh Nguyễn Minh T.

- Về con chung: vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018, hiện đang sống chung với chị O, từ khi ly thân với anh T, chị O trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các cháu. Sau khi ly hôn, chị O yêu cầu tiếp tục nuôi 03 con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp:

- Bản sao Giấy khai sinh của 03 con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018; CNĐKKH;

- Văn bản trình bày ý kiến của Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014.

- Tờ tự khai và đơn khởi kiện ngày của Liêu Kim O ngày 13/01/2021;

Tòa án thụ lý vụ án, bị đơn Nguyễn Minh T được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp hòa giải để động viên các bên có thể giải quyết các bất đồng quan điểm, hàn gắn đoàn tụ với nhau nhưng phía bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập nên không thể tiến hành hòa giải được, anh Nguyễn Minh T không có ý kiến phản hồi, cũng như ý kiến gì về việc nuôi các con chung, không ý kiến về cấp dưỡng nuôi các con chung.

Tại Biên bản xác minh của Tòa án tại Công an xã M.H.Đ, huyện C.M vào ngày 30/3/2021, xác định: anh Nguyễn Minh T hiện nay vẫn còn đăng ký thường trú tại địa phương, chưa chuyển khẩu đến nơi nào khác, thỉnh thoảng khoảng 1 – 2 tháng có về thăm gia đình.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh T; anh T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C.M, tỉnh An Giang: phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn Nguyễn Minh T tuy được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

+ Về hôn nhân, chị Liêu Kim O và anh Nguyễn Minh T tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới, vợ chồng có đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật vào năm 2009 tại Ủy ban nhân dân phường B, Quận 8, Thành phố H.C.M; vợ chồng sống chung hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp, thường xuyên cãi vã do anh T không lo làm ăn mà ham mê cơ bạc, mâu thuẩn ngày càng gay gắt, vợ chồng không còn sống chung, ly thân từ thời điểm đó cho đến nay, anh T đi làm nghề lái xe thỉnh thoảng có ghé thăm các con. Nay thấy tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị O xin ly hôn với anh Nguyễn Minh T. Xét thấy, từ khi chị O gửi đơn khởi kiện, anh T không có ý kiến phản hồi và vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, không tạo điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặt khác, chị O xác định không còn tình cảm với anh T, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị O và anh T đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, nếu tiếp tục sống chung sẽ không hạnh phúc, nên chị O yêu cầu ly hôn đối với anh T là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

+ Về con chung: vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018 đang sống chung với chị O, do chị O nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, chị O yêu cầu tiếp tục nuôi 03 con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung; Ý kiến các cháu đều có nguyện vọng sau khi cha mẹ ly hôn được sống cùng với mẹ. Việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng nuôi cần xem xét đến điều kiện phát triển của con chưa thành niên và nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật. Các cháu Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018 đang sống chung với chị O, vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, nguyện vọng của các cháu sau khi cha mẹ ly hôn sống cùng với chị O, nên cần ổn định cuộc sống của các cháu, tiếp tục giao các cháu cho chị O chăm sóc, nuôi dưỡng. Các đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

+ Về tài sản và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Liêu Kim O đối với anh Nguyễn Minh T.

- Giao chị Liêu Kim O được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018 đến tuổi trưởng thành. Anh Nguyễn Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn được xác định là quan hệ tranh chấp về“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: bị đơn Nguyễn Minh T, sinh năm 1984, nơi cư trú tại xã M.H.Đ, huyện C.M, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C.M, tỉnh An Giang.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các thông báo, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật cho các bên đương sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất được mở vào ngày 23 tháng 4 năm 2021, bị đơn vắng mặt không rõ lý do thuộc trường hợp hoãn phiên tòa.

Phiên tòa được mở lại lần thứ hai ngày 14 tháng 5 năm 2021, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về tính hợp pháp, chị Liêu Kim O và anh Nguyễn Minh T tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại Ủy ban nhân dân phường B, Quận 8, Thành phố H.C.M. Do đó, xác định là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; đời sống vợ chồng hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp, thường xuyên cãi vã do anh T không có chí thú, tập trung làm ăn, bản chất ham chơi cờ bạc, từ thời điểm đó vợ chồng không còn sống chung, ly thân cho đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, không còn sống cùng nhau, anh T đi làm nghề lái xe thỉnh thoảng có ghé thăm các con, mâu thuẩn càng nghiêm trọng, gay gắt không thể hàn gắn, tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị O xin ly hôn với anh Nguyễn Minh T.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân, thời gian đầu cuộc sống vợ chồng giữa chị O, anh T hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn bất đồng, mối quan hệ vợ chồng càng trở nên căng thẳng, không còn sống chung từ đó đến nay, kể từ thời điểm ly thân anh T chạy xe tải, thỉnh thoảng có ghé thăm các con, vợ chồng ít liên lạc qua lại, không dành sự quan tâm yêu thương lẫn nhau mà thay vào đó là dùng những lời lẽ lớn tiếng, xúc phạm, thể hiện mâu thuẩn vợ chồng trầm trọng, đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc, không còn sự quan tâm, chia sẻ, yêu thương lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến các phiên hòa giải để động viên các bên hàn gắn tình cảm, vận động cả hai kết nối xóa bỏ những bất đồng, gạt qua những mâu thuẩn để cùng chung sống với nhau nhưng anh T đều vắng mặt. Căn cứ vào lời trình bày của chị O thể hiện mâu thuẩn vợ chồng đến thời điểm hiện nay không thể hàn gắn được nữa và anh T không đưa ra căn cứ, biện pháp gì, hoàn toàn không có ý kiến phản hồi nào nhằm cải thiện đời sống chung của vợ chồng, hiện nay vợ chồng tiếp tục tình trạng sống ly thân, không quan tâm đến nhau, cuộc sống riêng lẻ của mỗi người, không còn mục tiêu để xây dựng một gia đình mà ở đó có sự yêu thương, quan tâm, chia sẽ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Điều đó thể hiện, mối quan hệ vợ chồng giữa chị O, anh T không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được; Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận khởi kiện cho chị Liêu Kim O được ly hôn anh Nguyễn Minh T là phù hợp.

[3] Về con chung: vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018 từ thời điểm ly thân các cháu sống cùng chị O, hiện nay vẫn do chị O trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; các cháu phát triển bình thường về thể chất, tinh thần. Sau khi ly hôn, chị O yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng 03 con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung; Ý kiến các cháu đều có nguyện vọng sau khi cha mẹ ly hôn được sống cùng với mẹ.

Khi xem xét việc giao con cho bên vợ hoặc bên chồng nuôi dưỡng cần đánh giá, phân tích dựa vào nhiều yếu tố, trong đó có xem xét đến điều kiện phát triển của con chưa thành niên, nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật. Các cháu Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018 từ thời điểm ly thân sống chung với chị O, chị O trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; các cháu vẫn phát triển bình thường về thể chất, tinh thần. Mặt khác, nguyện vọng của các cháu sau khi cha mẹ ly hôn sống cùng với chị O, nên cần ổn định cuộc sống, ổn định tâm lý của các cháu, nên tiếp tục giao các cháu cho chị O chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là có căn cứ.

Các đương sự không yêu cầu, ý kiến đề cập cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: chị Liêu Kim O phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 273; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Liêu Kim O. Cho chị Liêu Kim O được ly hôn với anh Nguyễn Minh T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 97 Quyển số 01/2009, do Ủy ban nhân dân Phường B, Quận 8, Thành Phố H.C.M cấp ngày 12 tháng 11 năm 2009 cho Liêu Kim O với anh Nguyễn Minh T, không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: giao các con chung Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 06/11/2010, Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 26/8/2014, Nguyễn Bảo D, sinh ngày 20/10/2018 cho chị Liêu Kim O được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ, thăm nom, chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Liêu Kim O phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số 0006006 ngày 27 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C.M, tỉnh An Giang; chị O đã nộp xong.

5. Quyền kháng cáo: Chị Liêu Kim O và anh Nguyễn Minh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 170/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:170/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;