Bản án 170/2018/HS-PT ngày 26/11/2018 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 170/2018/HS-PT NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 170/2018/TLPT-HS ngày 28 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo Trần Quang Đ bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tổ chức đánh bạc”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 33/2018/HS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

Bị cáo kháng cáo: Trần Quang Đ; Sinh ngày 18 tháng 3 năm 1988 tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Xóm 4, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Con ông Trần Xuân L (đã chết); Con bà Trần Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Ngày 28 tháng 12 năm 2015, bị Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong ngày 03 tháng 7 năm 2017, chưa được xóa án tích); Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11 tháng 11 năm 2017 đến ngày 20 tháng 11 năm 2017, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; vắng mặt.

- Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn thu lợi bất chính, Hoàng Tiến S đứng ra tổ chức đánh bạc và bàn bạc, thống nhất với Thái Bá H, Phan Thúc Y chung tiền làm “Vị tổng”; đồng thời, phân công Nguyễn Văn S, Đỗ Quang T, Trần Quang Đ, Tăng Văn Đ, Đinh Công V, Võ Văn H, Trần Văn Đ, Hoàng Anh T, Nguyễn Hữu Th và Nguyễn Viết H làm nhiệm vụ canh gác, chuẩn bị phương tiện, dụng cụ, đưa đón đối tượng đánh bạc, thu tiền hồ và sẽ được trả tiền công từ 200.000 đồng đến 700.000 đồng sau mỗi canh bạc.

Sáng ngày 10 tháng 11 năm 2017, Hoàng Tiến S gọi điện thoại thông báo cho các đối tượng sẽ tổ chức đánh bạc vào chiều ngày 11 tháng 11 năm 2017 tại địa điểm đã chọn là khe núi ông Chính thuộc xóm Đồng K, xã Nghĩa D, huyện T, tỉnh Nghệ An. Do có công việc nên sáng ngày 11 tháng 11 năm 2017, S gọi điện nói không đến sới bạc nhưng vẫn chỉ đạo cho các đối tượng khác thực hiện việc tổ chức đánh bạc. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Thái Bá H, Võ Văn H đến quán cà phê V; Nguyễn Hữu Th, Hoàng Thái N đến quán cà phê T để đón các đối tượng đánh bạc. Cùng lúc đó, các đối tượng khác theo phân công, đã tiến hành các công việc chuẩn bị tại địa điểm tổ chức đánh bạc. Quá trình đánh bạc bắt đầu từ 13 giờ 30 phút, Thái Bá H góp 140.000.000 đồng, Nguyễn Hữu G và Phan Thúc Y góp 50.000.000 đồng làm “Vị tổng”; Đặng Xuân U, Hoàng Thái N, Phạm Văn T, Nguyễn Đoãn H làm “Vị nhặt”, mức đặt tối thiểu từ 50.000 đồng trở lên; Nguyễn Hữu T là người thu tiền hồ của các đối tượng đánh bạc.

Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày thì bị Công an tỉnh Nghệ An bắt tang, thu tại sới bạc 51.400.000 đồng và một số dụng cụ dùng để đánh bạc; một số đối tượng lợi dụng sở hở bỏ chạy. Số tiền dùng để đánh bạc của từng bị cáo cụ thể như sau: Thái Bá H 140.000.000 đồng; Phan Thúc Y 25.000.000 đồng; Nguyễn Hữu G 25.000.000 đồng; Hoàng Văn Th 1.800.000 đồng; Trần Đình K 3.000.000 đồng; Nguyễn Thị L 1.000.000 đồng; Nguyễn Thị H 50.000 đồng; Nguyễn Văn H 3.000.000 đồng; Bùi Nguyên T5.000.000 đồng; Hoàng Thị N 10.000.000 đồng.

Số tiền các bị cáo Hoàng Tiến S, Nguyễn Hữu Th, Hoàng Anh T, Nguyễn Viết H, Tăng Văn Đ, Đinh Công V, Nguyễn Văn S, Đỗ Quang T, Trần Quang Đ và Trần Văn Đ tổ chức đánh bạc để thu lợi 5.400.000 đồng.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 33/2018/HSST ngày 28 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Quang Đ phạm tội “Tổ chức đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt Trần Quang Đ 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11 tháng 11 năm 2017 đến ngày 20 tháng 11năm 2017.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn áp dụng pháp luật để xử phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo và xử phạt tù đối với các bị cáo; tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 tháng 7 năm 2018, bị cáo Trần Quang Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09 tháng 7 năm 2018, bị cáo Nguyễn Hữu G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 11 tháng 7 năm 2018, bị cáo Hoàng Tiến S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đến ngày 25 tháng 11 năm 2018, các bị cáo Nguyễn Hữu G và Hoàng Tiến S làm đơn rút toàn bộ nội dung kháng, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã ra thông báo về việc rút kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu G và Hoàng Tiến S.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Quang Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ ba nhưng vắng mặt, Tòa án xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án; xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Quang Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt Trần Quang Đ 14 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11 tháng 11 năm 2017 đến ngày 20 tháng 11năm 2017.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của bị cáo Trần Quang Đ trong thời hạn luật định, chủ thể kháng cáo đúng quy định pháp luật nên có căn cứ để Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập bị cáo hợp lệ đến tham gia phiên tòa theo quy định pháp luật, nhưng bị cáo vắng mặt không có lý do và cũng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo và không ra bản án không có lợi cho bị cáo theo quy định tại Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Xét nội dung vụ án thấy rằng: Vào chiều ngày 11 tháng 11 năm 2017, tại khu vực khe núi ông Chín thuộc xóm Đ, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An, Hoàng Tiến S đã chỉ đạo cho Trần Quang Đ và các đối tượng khác chuẩn bị các phương tiện, dụng cụ, canh gác cho Thái Bá H Nguyễn Hữu G, Phan Thúc Y, Trần Đình K, Bùi Nguyên Th, Nguyễn Văn H, Võ Văn H, Hoàng Văn T, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị H, Hoàng Thái N và một số bị cáo khác đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa và thu tiền hồ. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày thì bị Công an tỉnh Nghệ An bắt quả tang, thu giữ tại sới bạc là 51.400.000 đồng và một số dụng cụ dùng để đánh bạc.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Quang Đ vắng mặt nhưng quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Quang Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị các khác; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập và thẩm tra tại phiên tòa sơ thẩm.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự xã hội, nếp sống văn minh công cộng. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, là nguyên nhân sâu xa làm phát sinh các loại tội phạm nguy hiểm khác, gây mất trật tự trị an, bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân trên địa bàn. Do đó, cần xét xử nghiêm minh để giáo dục, răn đe các bị cáo và mang tính phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm sau khi xem xét các chứng cứ, tình tiết của vụ án; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và vai trò của bị cáo trong vụ án; căn cứ các quy định của pháp luật để xét xử bị cáo Trần Quang Đ đồng phạm về tội “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999 và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trần Quang Đ không kháng cáo về tội danh mà chỉ kháng cáo xin Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Trần Quang Đ:

Trong vụ án, bị cáo không phải là người cầm đầu, chủ mưu trong việc tổ chức đánh bạc nhưng là người thực hiện việc canh gác cho các đối tượng khác đánh bạc nhằm mục đích vụ lợi bất chính, phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm với vai trò giúp sức. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực dưới sự chỉ đạo, phân công cụ thể, rõ ràng, thể hiện sự chuẩn bị kỹ lưỡng, có tổ chức nên cần phải xét xử nghiêm minh. Bị cáo đã bị Tòa án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích thì lại phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật, phạm tội với tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng để xử phạt bị cáo 14 tháng tù là đã thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Trần Quang Đ không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới và cũng không tham gia phiên tòa, không chấp hành đúng quy định pháp luật. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An là có căn cứ, đúng pháp luật và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Quang Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Trần Quang Đ 14 (Mười bốn) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngàybắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11 tháng 11 năm2017 đến ngày 20 tháng 11 năm 2017.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Trần Quang Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

465
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 170/2018/HS-PT ngày 26/11/2018 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:170/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;