Bản án 168/2019/HS-ST ngày 23/12/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 168/2019/HS-ST NGÀY 23/12/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 179/2019/HSST ngày 02/12/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2019/QĐXXST-HS ngày 11/12/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quỳnh T, (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1978, tại Nam Định; Trú tại: số nhà 15, đường 2, phố P, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Trí D và bà Trần Thị T; Vợ: Lê Thị Hồng T (Đã ly hôn); Con: có 01 sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Chưa có;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, (Có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Văn K, (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1960, tại Ninh Bình; Trú tại: tổ 3, phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 02/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị M; Vợ: Bùi Thị T; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 2003; Tiền án, tền sự: Chưa có.

Lịch sử bản thân:

- Bản án số 56/STHS ngày 20/7/1993 TAND tỉnh Ninh Bình xử phạt 3 năm tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”.

- Bản án số 02 ngày 09/11/1988 TAND thị xã T tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Bản án số 04 ngày 18/12/1984 TAND huyện H, tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Ngày 30/9/1993 Công an thị xã T đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Văn K về hành vi “Đánh Bạc”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, (Có mặt).

3. Họ và tên: Trần Văn D, (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1989, tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT: xóm 4, M, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; Nơi ở: số 13, ngõ 18, đường N, phố P, phường N, thành phố N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Văn T và bà Bùi Thị H; Vợ: Trần Thị H; Con: có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, (Có mặt).

4. Họ và tên: Bùi Toàn T1, (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1982, tại Ninh Bình; Trú tại: số nhà 725, phố T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Bùi Xuân T và bà Phạm Thị T; Vợ: Phạm Thị T; Con: có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: Chưa có;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, (Có mặt).

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn Q, (Vắng mặt).

2. Chị Phạm Thị D1, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quỳnh T, Nguyễn Văn K, Trần Văn D và Bùi Toàn T1 đều là bạn bè quen biết từ trước. Trưa ngày 14/9/2019, Dũng và Trung đến nhà anh Nguyễn Văn Toàn sinh năm 1964 ở số nhà 368, đường N, phường N, thành phố N chơi và uống nước. Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày thì Nguyễn Quỳnh T cũng đến nhà anh T3 chơi và uống nước. Khi ngồi uống nước T thấy có 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã cũ có sẵn trên bàn nên rủ D và T1 đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh Liêng trống cửa 50.000 đồng hết láng 500.000 đồng, D và T đồng ý. Cả ba ngồi tại phòng khánh nhà anh T3 để đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày Nguyễn Văn K cũng đến nhà anh T3 chơi, thấy T, T3 và D đang đánh bạc nên cũng ngồi xuống tham gia cùng. Các đối tượng sát phạt bằng hình thức, quy ước nêu trên đến khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố N phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã cũ; số tiền 400.000 đồng giữa chiếu trước mặt những người chơi; Thu giữ của Trần Văn D: số tiền 610.000 đồng ở túi quần trước bên phải, 21.600.000 đồng ở túi quần trước bên trái, 01 ví da nam ở túi quần sau bên trái bên trong có số tiền 170.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone Xmax; Thu giữ của Bùi Toàn T1: số tiền 15.600.000 đồng ở túi quần sau bên trái, số tiền 22.000.000 đồng ở túi quần trước bên phải, số tiền 150.000 đồng ở túi quần sau bên phải, 01 điện thoại di động Iphone 6 và 01 điện thoại di động Iphone 8; Thu giữ của Nguyễn Quỳnh T: số tiền 4.400.000 đồng dưới chiếu trước mặt, 01 ví da ở túi quần sau bên phải bên trong có số tiền 11.660.000 đồng và 01 điện thoại di động Samsung Galasy J7; Thu giữ của Nguyễn Văn K số tiền 2.500.000 đồng trong túi quần trước bên trái và 01 điện thoại di động Nokia 230.

Quá trình điều tra vụ án, Nguyễn Quỳnh T khai nhận mang theo 18.760.000 đồng trong đó sử dụng 6.250.000 đồng để đánh bạc và cho Nguyễn Văn K vay 2.000.000 đồng còn 10.510.000 đồng là tiền cá nhân không sử dụng để đánh bạc; D có 17.580.000 đồng sử dụng để đánh bạc; T1 mang theo 40.750.000 đồng trong đó sử dụng 5.600.000 đồng để đánh bạc còn 35.150.000 đồng là tiền cá nhân không sử dụng để đánh bạc; K mang theo 2.000.000 đồng và vay của T 2.000.000 đồng, tổng là 4.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc.

Các tài liệu điều tra đã chứng minh số tiền các bị can sử dụng để đánh bạc là 33.430.000 đồng; gồm: Tiền “chầu gà” dưới chiếu là 400.000 đồng, số tiền thu giữ dưới chiếu bạc trước mặt người chơi: của Nguyễn Quỳnh T 4.400.000 đồng và tiền thu giữ trên người các đối tượng khai nhận sử dụng để đánh bạc gồm: của Trần Văn D 22.380.000 đồng; Bùi Toàn T1: 2.600.000 đồng; Nguyễn Văn K: 2.500.000 đồng; Nguyễn Quỳnh T: 1.150.000 đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Quỳnh T, Nguyễn Văn K, Trần Văn D và Bùi Toàn T1 đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 176/CT-VKS ngày 30/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Quỳnh T, Nguyễn Văn K, Trần Văn D và Bùi Toàn T1 đều về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự (BLHS).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Nguyễn Quỳnh T, Nguyễn Văn K, Trần Văn D và Bùi Toàn T1 đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS. Xử phạt: Nguyễn Quỳnh T từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 là 06 ngày quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ); Thời hạn tính từ ngày UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo T cho UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo; Khấu trừ thu nhập 5%; Phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng;

* Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS. Xử phạt: Nguyễn Văn K từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 là 06 ngày quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ); Thời hạn tính từ ngày UBND phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo K cho UBND phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo K có trách nhiệm phối hợp với UBND phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo; Khấu trừ thu nhập 5%; Phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng;

* Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51BLHS. Xử phạt:

- Trần Văn D từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng;

- Bùi Toàn T1 từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng;

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 33.430.000 đồng.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Các bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra; lời khai người làm chứng; các tài liệu chứng cứ có trong hồ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hồi 16 giờ 50 phút ngày 14/9/2019, tại nhà anh Nguyễn Văn T3 sinh năm 1964 ở số nhà 368, đường N, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Quỳnh T, Bùi Toàn T1, Trần Văn D và Nguyễn Văn K đã có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh Liêng với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 33.430.000 đồng bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng; các bị cáo là những người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự và độ tuổi theo quy định; cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự, thấy: hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, chứng cứ buộc tội các bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Như vậy, hành vi đánh bạc bằng hình thức “Đánh liêng” được thua bằng tiền với số tiền sử dụng để đánh bạc là 33.430.000 đồng của các bị cáo T, T1, D, K đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS.

Đây là vụ án có đông bị cáo tham gia, hành vi phạm tội của các bị cáo mặc dù không có tính chất tổ chức, hình thức phạm tội là đồng phạm giản đơn. Nhưng trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thấy rằng:

Đối với Nguyễn Quỳnh T là người khởi xướng việc đánh bạc, và rủ D, T1 đánh bạc bằng hình thức “Đánh Liêng” được thua bằng tiền được các bị cáo đồng ý, T lấy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã cũ có sẵn trên bàn nhà anh T3 để đánh bạc và sử dụng số tiền 6.250.000 đồng vào việc đánh bạc. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với vai trò đầu vụ. Bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện ở việc chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đối với các bị cáo Trần Văn D và Bùi Toàn T1 khi được T rủ đánh bạc bằng hình thức “Đánh Liêng” được thua bằng tiền, các bị cáo không những không can ngăn mà đồng ý ngay và cùng tham gia đánh bạc ngay từ đầu với T; đồng thời D đã sử dụng số tiền 17.580.000 đồng để đánh bạc; T1 đã sử dụng số tiền 5.600.000 đồng để đánh bạc; Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với vai trò thứ hai sau bị cáo T. Các bị cáo đều là người có nhân thân tốt thể hiện ở việc chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn K là người có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt tù về các tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” và Lừa đảo chiếm đoạt tài sảnmặc dù đã được xóa án tích, nhưng thể hiện việc bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân tiếp tục lao vào con đường phạm tội thể hiện ở việc khi bị cáo đến nhà anh T3 chơi, thấy T, T1 và D đang đánh bạc, bị cáo cũng ngồi xuống tham gia cùng; Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với vai trò cuối cùng, nhưng phải chịu mức hình phạt cáo hơn so với các bị cáo D và T. Tình tiết tăng nặng: không có. Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo; Hội đồng xét xử, xét thấy:

Đối với các bị cáo Nguyễn Quỳnh T và Nguyễn Văn K, xét thấy các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, do đó cần áp dụng Điều 36 BLHS giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục là có căn cứ, đồng thời khấu trừ thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án đối với mỗi bị cáo là 5%; phạt tiền bổ sung mỗi bị cáo 15.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước. Các bị cáo đều đã bị tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 là 06 ngày vì vậy khi quyết định hình phạt cần trừ thời gian đã bị tạm giữ cho bị cáo theo tỷ lệ cứ 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Đối với các bị cáo Trần Văn D và Bùi Toàn T1, xét thấy các bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 BLHS do đó chỉ áp dụng hình chính là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 33.430.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc do vậy căn cứ Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 bộ bài lơ khơ 52 quân là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng do vậy cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[4] Các vấn đề khác:

- Đối với số tiền 45.660.000 đồng, gồm 10.510.000 đồng thu giữ của Nguyễn Quỳnh T và 35.150.000 đồng thu giữ của Bùi Toàn T1 quá trình điều tra xác định là tiền cá nhân của các bị cáo; 01 điện thoại di động Iphone Xmax và 01 ví da nam thu giữ của Trần Văn D; 01 điện thoại di động Iphone 6 và 01 điện thoại di động Iphone 8 thu giữ của Bùi Toàn T1; 01 điện thoại di động Samsung Galasy J7 và 01 ví da nam thu giữ của Nguyễn Quỳnh T; 01 điện thoại di động Nokia 230 thu giữ của Nguyễn Văn K không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho các bị can là có căn cứ đúng quy định.

- Quá trình điều tra xác định ngày 14/9/2019 các bị cáo đánh bạc tại nhà của anh Nguyễn Văn T3 sinh năm 1964 ở số nhà 368, đường N, phường N, thành phố N, lúc này anh T3 không có nhà. Việc các bị can đánh bạc anh T3 không biết, không thu tiền hồ hay có hành vi khác liên quan nên không vi phạm.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Quỳnh T.

- Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Văn K.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với các bị cáo Trần Văn D và Bùi Toàn T1.

- Điều 47 BLHS; Khoản 2 các điều 106, 135, 136 của BLTTHS; các điều 21, 23 của Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu án phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Quỳnh T, Nguyễn Văn K, Trần Văn D và Bùi Toàn T1 đều phạm tội “Đánh bạc”;

1.1. Xử phạt: Nguyễn Quỳnh T 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 là 06 ngày quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ); Bị cáo còn phải chấp hành là 14 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo T cho UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo; Trong thời gian chấp hành án hàng tháng bị cáo còn bị khấu trừ thu nhập là 5% để nộp ngân sách nhà nước; Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước;

1.2. Xử phạt: Nguyễn Văn K 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 là 06 ngày quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ); Bị cáo còn phải chấp hành là 14 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày UBND phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo K cho UBND phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo K có trách nhiệm phối hợp với UBND phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo; Trong thời gian chấp hành án hàng tháng bị cáo còn bị khấu trừ thu nhập là 5% để nộp ngân sách nhà nước; Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước;

1.3. Xử phạt: Trần Văn D 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước;

1.4. Xử phạt: Bùi Toàn T1 28.000.000đ (Hai mươi tám triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước;

2. Xử lý vật chứng:

2.1. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 33.430.000 đồng thu giữ của các bị cáo (Số tiền 33.430.000 đồng hiện đang ở tài khoản Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N tại kho bạc Nhà nước thành phố N, theo uỷ nhiệm chi lập ngày 19/12/2019).

2.2. Tịch thu tiêu hủy 52 quân bài lơ khơ. (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/12/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Nguyễn Quỳnh T, Nguyễn Văn K, Trần Văn D, Bùi Toàn T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 168/2019/HS-ST ngày 23/12/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:168/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;