Bản án 168/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 168/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 968/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 143/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Vũ Kim N , sinh năm 1988; thường trú: Tổ 1 (số mới 166, tổ 5), khu phố T, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đào Văn Đ, sinh năm 1988; thường trú: Tổ 1 (số mới 166, tổ 5), khu phố T, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Số 288, khu phố B, phường A, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Bà Phan Thị K, sinh năm 1963; thường trú: Tổ 1, khu phố T, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Ấp 6, xã M, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 9 năm 2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Vũ Kim N trình bày: Về hôn nhân: Chị Nguyễn Vũ Kim N và anh Đào Văn Đ tư nguyện chung sống cùng nhau từ năm 2012 và đăng ký kêt hôn theo gi ấy chứng nhận kết hôn số 05, quyển số 01/2012 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước vào ngày 07 tháng 02 năm 2012.

Quá trình sống chung thời gian đầu có hạnh phúc. Đến cuối năm 2016, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cãi nhau làm cho cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng. Vì tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị N yêu cầu được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đào Nguyễn Hữu P, sinh ngày 22/7/2013. Sau khi ly hôn, chị N yêu cầu nuôi dưỡng cháu P và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Đào Văn Đ: Quá trình tố tụng, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Đ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 23/10/2019; tham gia phiên tòa vào các ngày 12/11/2019 và 28/11/2019 nhưng anh Đ vắng mặt không có lý do. Đồng thời, anh Đ cũng không có ý kiến, yêu cầu đối với yêu cầu khởi kiện của chị N.

- Ngày 27/9/2019, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa chị Nguyễn Vũ Kim N và anh Đào Văn Đ tại địa phương và được bà Vương Thị Hồng T là cán bộ Hội phụ nữ phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cung cấp: Quá trình chị Nguyễn Vũ Kim N và anh Đào Văn Đ sinh sống tại địa phương, chính quyền không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị. Do đó không biết rõ giữa hai anh chị có mâu thuẫn như thế nào. Vấn đề con chung, công việc và thu nhập Hội phụ nữ phường cũng không biết nên không cung cấp thông tin được cho Tòa án.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm đã bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát,Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Vũ Kim N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Đào Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt hai lần liên tiếp không có lý do chính đáng. Căn cư các điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân chị Nguyễn Vũ Kim N và anh Đào Văn Đ là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 05, quyển số 01/2012 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước vào ngày 07 tháng 02 năm 2012 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình tố tụng chị N xác định: Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, hay cãi nhau và không quan tâm, chăm sóc nhau. Tại biên bản xác minh của Tòa án ngày 27/9/2019, xác định chính quyền địa phương không nhận được trình báo nào của anh Đ, chị N những lúc anh, chị mâu thuẫn nhau.

[3] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Chị N cho rằng anh Đ không biết quan tâm gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã nghiêm trọng. Tòa án đã triệu tập anh Đ có mặt tại Tòa án để trình bày ý kiến nhằm hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Đ không đến và cũng không có ý kiến, yêu cầu gì. Tòa án tiến hành làm việc với bà Phan Thị K là mẹ ruột của chị N, bà K trình bày mặc dù vợ chồng N và Đ không chung sống cùng bà K nhưng những lúc về thăm cha mẹ, chị N thường xuyên than phiền về việc anh Đ không quan tâm chăm sóc gia đình, hay uống rượu bia, mọi chi tiêu sinh hoạt trong gia đình đều do chị N lo liệu, chị Ngọc nhiều lần khuyên can nhưng anh Đ không thay đổi, anh Đ còn bày tỏ thái độ nên vợ chồng không hợp, không sống được thì ly hôn. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh Đ và chi N đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cả hai bên đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị N là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ châp nhân.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đào Nguyễn Hữu P, sinh ngày 22/7/2013. Sau khi ly hôn, chị N yêu cầu nuôi dưỡng cháu P và cung cấp bảng lương để chứng minh thu nhập trung bình của chị N từ 6.100.000 đồng/tháng đến 10.200.000 đồng/tháng và chị N không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Quá trình tố tụng anh Đ không có ý kiến gì về việc anh Đ có yêu cầu được nuôi. Để đảm bảo quyền lợi của cháu P, xét thấy có cơ sở để chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Nguyễn Vũ Kim N.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhân sư tư nguyên cua ch ị Nguyễn Vũ Kim N không yêu cầu anh Đào Văn Đ câp dương nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có tranh chấp nên Tòa án không giải quyết.

[7] Từ những phân tích trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là có cơ sở chấp nhận.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Vũ Kim N phải chịu án phí theo quy đinh cua phap luât.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 271, 273, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Vũ Kim N đối với anh Đào Văn Đ.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Vũ Kim N được ly hôn với anh Đào Văn Đ (theo giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước cấp vào ngày 07 tháng 02 năm 2012).

- Về con chung: Anh Đào Văn Đ giao con chung tên Đào Nguyễn Hữu P, sinh ngày 22/7/2013 cho chị Nguyễn Vũ Kim N trưc tiêp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Vũ Kim N không yêu cầu anh Đào Văn Đ cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh Đào Văn Đ có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, chị N không có quyền cản trở anh Đ thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của các con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không có tranh chấp nên Tòa án không giải quyết.

2.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Vũ Kim N chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí ly hôn. Khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0029332 ngày 26/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 168/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:168/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;