Bản án 167/2021/HNGĐ-ST ngày 12/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 167/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 64/2021/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2021 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 205/2021/QĐST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; địa chỉ liên lạc: số A, phường T, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn E, sinh năm 1991; địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị H trình bày, sau thời gian tự tìm hiểu, bà H và ông Nguyễn Văn E kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh An Giang, vào ngày 17/4/2014. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 02 con chung tên Nguyễn Văn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 30/8/2015. Hiện tại, các con chung đang được bà H nuôi dưỡng. Tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Sau thời gian 04 năm chung sống, bà H, ông E thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng không còn sống chung khoảng 04 năm nay.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông E; yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông E cấp dưỡng nuôi dạy 02 con chung; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng nhận kết hôn số 40/2014, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 17/4/2014 (bản chính); Giấy khai sinh của Nguyễn Văn H1 do Ủy ban nhân dân xã M, huyện C cấp ngày 07/4/2015 (bản sao); Trích lục khai sinh số 72/TLKS-BS ngày 12/4/2017 của Ủy ban nhân dân xã M, huyện C đối với Nguyễn Thị Ngọc L (bản sao).

- Bị đơn ông Nguyễn Văn E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, bà H không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà H và ông E chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà H, ông E hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống và không còn sống chung khoảng 04 năm.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà H yêu cầu ly hôn với ông E. Ông E không có ý kiến phản hồi. Bà H, ông E không tạo điều kiện cho nhau hành gắn hạnh phúc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông E theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà H, giao các cháu H1, L cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, do bà H không yêu cầu ông E cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung, đề nghị không đề cập giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông E; giao các cháu H1, L cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; ông E không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Phan Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn E. Đồng thời, ông E cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Văn E đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông E theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Bà H và ông E tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông E là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà H xác định, vợ chồng mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã từ khoảng năm 2017 cho đến nay do bất đồng quan điểm sống và bà H, ông E không còn sống chung cách nay khoảng 04 năm.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, bà H và ông E thường xuyên cãi vã và không còn sống chung từ cách nay khoảng 04 năm. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho ông E nhưng ông E không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà H. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà H, ông E là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông E theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Bà H xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 02 con chung tên Nguyễn Văn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 30/8/2015. Bà H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung.

Xét thấy, con chung đang được bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển n định. Bên cạnh đó, cháu H1 có nguyện vọng sống cùng bà H trong trường hợp bà H ly hôn với ông E. Do đó, để đảm bảo n định cuộc sống cho các con chung, giúp cháu H1, cháu L phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao các cháu H1, L cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà H không yêu cầu ông E cấp dưỡng nuôi các cháu H1, L nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông E không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị H.

1. Về hôn nhân: Bà Phan Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Hồng E.

Giấy chứng nhận kết hôn 40 ngày 17/4/2014 do Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho bà Phan Thị H và ông Nguyễn Văn E không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Bà Phan Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Văn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 30/8/2015. Ông Nguyễn Văn E không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Phan Thị H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Văn E trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đ i người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí sơ thẩm:

Bà Phan Thị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 00 000 ba tr m nghìn đ ng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 00 000 ba tr m nghìn đ ng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2019/0009436 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 25 tháng 01 năm 2021; bà Phan Thị H đã nộp đủ án phí.

Ông Nguyễn Văn E không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Phan Thị H có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Văn E được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; T hời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 167/2021/HNGĐ-ST ngày 12/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:167/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;