Bản án 167/2018/HNGĐ-ST ngày 07/11/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 167/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 126/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/ ĐXX- ST ngày 15 tháng 10 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 12/2018/ ĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cà Thị S, sinh năm 1997. Địa chỉ: Bản P, xã CN, Thành phố SL, tỉnh Sơn La, có mặt.

- Bị đơn: Anh Lò Văn B, sinh năm 1995. Địa chỉ: Bản CP, xã HL, huyện MS, tỉnh Sơn La, vắng mặt.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày tháng năm và trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Cà Thị S trình bày:

Chị và anh Lò Văn B kết hôn với nhau từ năm 2015 do cả hai cùng tự nguyện. Anh chị có đi đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật và đã được Uỷ ban nhân dân xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/11/2015. Khi kết hôn chị và anh B đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Anh chị đã được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi cho theo phong tục tập quán.

Sau khi kết hôn hai anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc được m t thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chính là do anh B không tu trí làm ăn, vợ khuyên bảo thì đe dọa, đánh đập. Gia đình hai bên cũng đã khuyên bảo động viên nhiều lần nhưng anh B vẫn không thay đổi. Đến tháng 2/2017, anh chị sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh B không hề quan tâm gì đến mẹ con chị. Hiện chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh B đã không thể hàn gắn được nữa, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh B.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lò Thị VA sinh ngày 27/9/2014. Chị có nguyện vọng được nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu A khi ly hôn, không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng.

Về tài sản chung: Anh chị không có tài sản chung vợ chồng.

Về nợ chung: Anh chị không nợ ai cũng không cho ai vay mượn tài sản.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Mai tiến hành tống đạt văn bản tố tụng triệu tập anh B đến Tòa án để làm việc, niêm yết công khai tại nơi cư trú việc Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án ly hôn giữa chị S và anh B. Tuy nhiên anh B không có mặt, trốn tránh, gây khó khăn cho việc yêu cầu xin ly hôn của chị S.

Căn cứ Điều 208 BLTTDS và theo đề nghị của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành xác minh theo quy định về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân, về con chung và tài sản chung, nợ chung để giải quyết vụ án xin ly hôn giữa chị Cà Thị S và anh Lò Văn M. Kết quả xác minh đối với Ban quản lý bản CP, xã HL, huyện MS, Ban quản lý bản , xã CN, thành phố SL và đại diện hai gia đình chị S, anh B xác định:

Về tình cảm: Chị S và anh B kết hôn với nhau từ năm 2015, sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau cùng gia đình ông Lò Văn M, bà Lò Thị T bố mẹ đẻ anh B) tại bản CP, xã HL được gần m t năm. Sau đó hai vợ chồng xin chuyển về nhà ngoại sống cho đến thời điểm sống ly thân năm 2017. Nguyên nhân mâu thuẫn chính giữa hai anh chị là do anh B không quan tâm đến vợ con, thường xuyên vắng nhà. Đầu năm 2017, anh B bỏ vợ con lại ở nhà ngoại rồi về nhà bố mẹ đẻ sau đó có nói là đi làm thuê xa, không quan tâm gì đến vợ con. Gia đình hai bên và chị S cũng đã thông báo cho anh B biết việc chị S có đơn xin ly hôn tại Tòa án huyện Mai Sơn, anh B nhất trí ly hôn nhưng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, cũng không cho gia đình và chị S biết địa chỉ nơi cư trú hiện tại. Về con chung: Chị S, anh B có 01 con chung là cháu Lò Thị VA sinh ngày 27/9/2014. Cháu hiện đang sống cùng chị S, anh B không quan tâm gì đến hai mẹ con. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Chị S, anh B không có tài sản chung gì có giá trị. Anh chị không có khoản nợ chung nào tại địa phương.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa :

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm H i đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng:

Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên toà ngày hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét tất cả các ý kiến của những người tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị HĐXX quyết định: Áp dụng Điều 56; Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Cà Thị S đối với anh Lò Văn B. Về con chung: Giao con chung là cháu Lò Thị VA sinh ngày 27/9/2014 cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chấp nhận việc chị S không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày củ đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: uá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Cà Thị S đã cung cấp đúng và đầy đủ địa chỉ của bị đơn anh Lò Văn B trong đơn khởi kiện và các chứng cứ kèm theo. Tuy nhiên, anh B cố tình giấu địa chỉ, bỏ nhà đi không rõ đi đâu, việc thay đổi nơi cư trú không thông báo địa chỉ cho chính quyền địa phương và chị S biết nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Anh B không làm thủ tục tạm vắng hay chuyển khẩu đi nơi khác. Tòa án nhân dân huyện MS đã tống đạt và niêm yết công khai các văn bản tố tụng hai lần đối với anh B tại bản CP, xã HL nhưng anh B vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 4 Điều 207 B luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 40; khoản 4 Điều 189; Điều 195 B luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐT ngày 05/5/2017 của H i đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân huyện MS tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai. Xác định bị đơn đã được triệu tập hợp lệ vắng mặt lần hai nên Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm theo quy định chung.

[2] Về yêu cầu xin ly hôn:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị Cà Thị S và anh Lò Văn B tự nguyện kết hôn với nhau từ năm 2015. Anh chị đã được UBND xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/11/2015 (số 40). Khi kết hôn anh chị đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nên anh chị là vợ chồng hợp pháp. Sau khi kết hôn hai anh, chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc được hơn m t năm thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh B không quan tâm đến vợ con, thường xuyên vắng nhà. Đến đầu năm 2017, anh B về nhà bố m đ rồi đi làm xa, không quan tâm chăm sóc vợ con. Anh chị sống ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, bản thân chị S và bố mẹ đẻ anh B đã nhiều lần liên lạc với anh B về giải quyết ly hôn. Tuy anh B nhất trí ly hôn nhưng không có mặt tại Tòa án để giải quyết, c ng không cho chị S và gia đình biết địa chỉ hiện tại đang cư trú.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành điều tra xác minh nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa hai vợ chồng theo quy định tại Điều 208 B luật Tố tụng dân sự năm 2015. Mâu thuẫn chính giữa hai vợ chồng là do anh B không quan tâm đến vợ con, bỏ nhà đi m t thời gian dài c ng không cho chị S biết hiện đang cư trú ở đâu.Tại phiên tòa, chị S giữ nguyên ý kiến xin ly hôn với anh B. Tòa án đã tiến hành tống đạt và thực hiện niêm yết công khai các văn bản tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho anh B biết nhưng anh B cố tình vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.

Hội đồng xét xử xét thấy, anh chị đã sống ly thân thời gian đã lâu, tình cảm vợ chồng đã không thể hàn gắn được, mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm tr ng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên cần căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị S xử cho chị S được ly hôn với anh B.

[2.2] Về con chung: Chị S và anh B có 01 con chung là cháu Lò Thị VA sinh ngày 27/9/2014. Cháu A hiện đang sống cùng với chị S. Từ khi sống ly thân anh B không quan tâm chăm sóc và nuôi dưỡng con chung cùng chị S. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu A theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận việc tại phiên tòa chị S không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng.

[2.3] Về tài sản chung: Sau khi chị S, anh B về nhà bố m đ chị S sống thì năm 2016 có được bên ngoại hỗ trợ dựng cho một ngôi nhà tạm để vợ chồng sống riêng. Tuy nhiên, từ khi anh B bỏ nhà đi, bố m chị S đã dỡ nhà đi và đưa m con chị S về sống cùng. Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Chị S, anh B không vay nợ ai cũng không cho ai vay mượn tài sản.

[2.5] Về án phí: Chị S phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 147; Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTV H14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc H i quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Cà Thị S và anh Lò Văn B.

2. Về con chung:

Giao cháu Lò Thị VA sinh ngày 27/9/2014 cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Lò Thị VA thành niên đủ 18 tuổi).

Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị S do chị S không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, anh B được quyền thăm nom con, không ai được cản trở anh B được thực hiện quyền này theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có

5. Về án phí: Chị S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã n p theobiên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2013/04797 ngày 23 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện MS, tỉnh Sơn La.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 167/2018/HNGĐ-ST ngày 07/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:167/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;