TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 166/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ LY HÔN, CON CHUNG GIỮA CHỊ P, ANH G
Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 28/2020/TLST- HNGĐ ngày 12-02-2020 về việc xin ly hôn, con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12-06-2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 38/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30-6-2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1997:
Địa chỉ: Xóm 9, xã Hải Z, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
2. Bị đơn: Anh Bùi Văn G, sinh năm 1992:
Địa chỉ: Xóm 9, xã Hải Z, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
(Chị P xin vắng mặt, anh G vắng mặt lần thứ 2).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 14 tháng 11 năm 2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị P trình bày:
Chị Nguyễn Thị P và anh Bùi Văn G kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và được UBND xã Hải Z, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12-8-2014. Sau khi kết hôn, anh G và chị P chung sống tại nhà mẹ đẻ của anh G được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm lối sống khác nhau nên trong cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra xích mích cãi chửi nhau. Do không thể tiếp tục chung sống với nhau được nên tháng 6 - 2017 hai người đã sống ly thân. Nay nhận thấy tình vợ chồng không còn nên chị P làm đơn xin được ly hôn anh G.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Bùi Thị Thủy Tiên, sinh ngày 27-4-2015, hiện đang do chị P nuôi dưỡng. Nếu ly hôn, chị P xin được nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu anh G phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị P.
Về tài sản chung và công nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ của ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Toà án đã kết hợp với Công an xã Hải Z giao Thông báo thụ lý số 28/TB- TLVA, ngày 12-02-2020 hợp lệ cho anh Bùi Văn G và các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng anh G không đến Tòa án làm việc, không đưa ra lý do của sự vắng mặt và không gửi các văn bản trình bày ý của mình về yêu cầu khởi kiện của chị P. Ngày 12-6-2020 Toà án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và đã giao Quyết định xét xử cho anh Bùi Văn G, tuy nhiên anh G vẫn vắng mặt, không có lý do.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phám và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được tống đạt các văn bản tố tụng, nhưng anh G không đến Tòa án làm việc là từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình. Sau khi nhận được Quyết định xét xử chị P có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Anh G vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Do đó, đề nghị Tòa án căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị P, anh G.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Nguyễn Thị P ly hôn với anh Bùi Văn G. Về con chung, giao con chung cho chị P nuôi dưỡng, không buộc anh G phải cấp dưỡng nuôi con cho chị P.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Bùi Văn G là bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần 02, nhưng anh G vẫn vắng mặt không có lý do. Chị P có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị P, anh G.
[2]. Về hôn nhân: Quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị P và anh Bùi Văn G là quan hệ hôn nhân hợp pháp vì được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và được UBND xã Hải Z, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đăng ký kết hôn ngày 12-8-2014. Do trong cuộc sống vợ chồng tính tình hai người không hợp, quan điểm lối sống khác nhau nên thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau. Tháng 6-2017, chị P đã đưa con đi thuê nhà ra ở riêng, vợ chồng đã sống ly thân và chấm dứt mọi quan hệ tình cảm, sinh lý và trách nhiệm đối với nhau từ đó đến nay nên chị P đề nghị xin được ly hôn anh G.
Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị P đối với anh Bùi Văn G thì thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh G là trầm trọng, chị P và anh G đã sống ly thân thời gian dài nhưng 02 bên không có biện pháp nào để vợ chồng về chung sống đoàn tụ. Vì vậy, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị P đối với anh G là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị P và anh Bùi Văn G có 01 con chung là cháu Bùi Thị Thủy Tiên, sinh ngày 27-4-2015, hiện đang do chị P nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị P đề nghị xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh G cấp dưỡng tiền nuôi con.
Xét nguyện vọng và điều kiện nuôi dưỡng con chung của chị Nguyễn Thị P thì thấy: Cháu Bùi Thị Thủy T hiện đang do chị P nuôi dưỡng; chị P có nghề nghiệp và mức thu nhập ổn định. Anh G không có ý kiến gì về nuôi dưỡng con chung. Do đó, để đảm bảo sự phát triển mọi mặt của cháu Tiên nên tiếp tục giao cháu Tiên cho chị P nuôi dưỡng là phù hợp. Do chị P không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng tiền nuôi con nên về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết. Anh G được quyền thăm con chung không ai được cản trở việc anh G thực hiện quyền thăm con, nhưng không được lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng con là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.
[4]. Về tài sản chung và công nợ: Chị P xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ của ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh G cũng không có ý kiến gì về tài sản chung và công nợ nên về tài sản chung và công nợ Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị P phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị P và anh Bùi Văn G.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Bùi Thị Thủy T, sinh ngày 27-4-2015 cho chị Nguyễn Thị P chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi cháu Tiên đến tuổi thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Anh Bùi Văn G không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị P và được quyền đi lại chăm sóc con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị P phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0001975 ngày 12-02-2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Hậu; chị P đã nộp đủ án phí.
Nguyên đơn, Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 166/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về ly hôn, con chung giữa chị P, anh G
Số hiệu: | 166/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về