TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 165/2017/HSST NGÀY 12/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 168/2017/HSST ngày 03 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Sồng A T, sinh năm 1951 tại huyện M, tỉnh Y; nơi cư trú: Bản H, xã S, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; con ông Sồng A D và bà Giàng Thị P (đều đã chết); có vợ là Giàng Thị M và có 07 con, con lớn nhất sinh năm 1973, con nhỏ nhất sinh năm 1999; có hai tiền án: Ngày 27 tháng 8 năm 2002 Tòa án nhân dân tối cao Tòa phúc thẩm tại Hà Nội xử phạt 15 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, ngày 24 tháng 01 năm 2014 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 07 tháng 4 năm 2017 đến nay; có mặt tại phiên toà.
NHẬN THẤY
Bị cáo Sồng A T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 10 giờ 00 phút ngày 07 tháng 4 năm 2017 tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại bản H, xã S, huyện Mộc Châu, tiến hành kiểm tra hành chính về ma túy tại nhà ở của Sồng A T, T giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 20 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (hồng phiến). T khai nhận đó là hồng phiến của T, do bản thân nghiện ma túy, ngày 05 tháng 4 năm 2017 T đi bộ từ nhà đến khu vực biên giới Việt Nam – Lào thuộc bản B, xã L để mua ma túy sử dụng, T đã mua được của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi không quen biết 20 viên hồng phiến gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 800.000 đồng, T cất giấu gói hồng phiến vào túi quần bên phải rồi đi về nhà. Ngày 07 tháng 4 năm 2017, khi bị tổ công tác kiểm tra, T đã giao nộp gói hồng phiến. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Sồng A T bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.
Về người bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.
Ngày 07 tháng 4 năm 2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng 20 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (hồng phiến) thu giữ của Sồng A T có tổng trọng lượng 1,86 gam. Lấy 05 viên có tổng trọng lượng 0,46 gam làm mẫu trưng cầu giám định xác định có phải là chất ma túy không? Thuộc loại chất ma túy gì? Trọng lượng (khối lượng) của mẫu giám định là bao nhiêu? Mẫu có ký hiệu T. Tại kết luận giám định số 434/KLMT ngày 16 tháng 4 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,46 gam; Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 1,86 gam, loại chất Methamphetamine”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Sồng A T giữ nguyên lời khai.
Tại bản cáo trạng số 131/CT-VKS ngày 03 tháng 7 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố Sồng A T về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu luận tội, giữ nguyên cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sồng A T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:
1. Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Sồng A T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Áp dụng khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 1,40 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.
3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và lời khai của bị cáo,
XÉT THẤY
Tại phiên toà, bị cáo Sồng A T vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.
Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 07 tháng 4 năm 2017; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định; kết luận giám định, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Do vậy có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 07 tháng 4 năm 2017 Sồng A T đã có hành vi cất giấu 1,86 gam Methamphetamine để sử dụng cho việc nghiện ma túy của bản thân. Do Sồng A T có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” theo điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, quy định mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người nào tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14 và khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì cần áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo. Do vậy, bị cáo Sồng A T chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy với mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Sồng A T là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo đã hai lần bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải quyết định hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên toà thấy gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy vật chứng là chất ma túy và đồ vật liên quan không có giá trị sử dụng gồm 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 1,40 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Xét thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại trên 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam sau khi xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Sồng A T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
1. Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Sồng A T 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 07 tháng 4 năm 2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Áp dụng khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 1,40 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Sồng A T phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 165/2017/HSST ngày 12/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 165/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về