Bản án 164/2021/HSPT ngày 09/04/2021 về tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 164/2021/HSPT NGÀY 09/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 190/2021/TLPT-HS ngày 03 tháng 2 năm 2021 đối với bị cáo Lê Việt C về tội “Trộm cắp tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Do kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2020/HS-ST ngày 25-12-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 970/2021/QĐXXPT-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Lê Việt C (tên gọi khác: U); sinh ngày: 20/3/1995 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Trần Thị Kim G; có vợ Ngô Thị Như P và 01 người con, sinh năm 2015; tiền án: Ngày 23/7/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, xử phạt 09 tháng tù, về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 05/7/2020 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra trong vụ án còn có một số bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Việt C chưa được xóa án tích về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 2020 đến tháng 6 năm 2020, C lại tiếp tục nhiều lần phạm tội trên các địa bàn thị xã Hương Trà, huyện P và huyện Q, tỉnh Thừa Thiên Huế, cụ thể:

1. Về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”:

Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 10 giờ ngày 13/5/2020, C đến quán cà phê “C” của chị Nguyễn Thị Phương L (là người quen) ở tỉnh Thừa Thiên Huế lừa mượn chiếc xe mô tô biển số: 75H2-5065 của chị L đem bán cho anh Lê Văn T ở tỉnh Quảng Trị lấy 500.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 44/KL-HĐĐGTS ngày 01/9/2020, của Hội đồng định giá UBND thị xã Hương Trà, kết luận chiếc xe mô tô của chị L trị giá: 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm ngàn đồng).

2. Về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 03/6/2020, C nhờ anh Hoàng Sư Đ (là người quen) chở đến nhà chị Lê Thị T (chị gái C) ở huyện P để mượn tiền. Khi đến gần nhà chị T, C bảo anh Đ ngồi đợi ngoài quán nước và cho C mượn xe mô tô biển số: 75C1-266.44 để vào nhà chị T. Sau khi vào gặp T mượn không được tiền, C đem xe mô tô của anh Đ ra Đ Hà, tỉnh Quảng Trị bán cho anh Trần Văn S ở tỉnh Quảng Trị lấy 10.000.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 20/KL-HĐĐGTS ngày 01/7/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của anh Đ trị giá: 20.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 7 giờ ngày 23/6/2020, C đến quán “M” gặp anh Trần Phước K (là người quen) ở thị trấn P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế mượn xe mô tô biển số: 75H7-9271 nói để đi ăn sáng. Sau đó, C đem xe mô tô của anh K bán cho anh Nguyễn K T ở tỉnh Quảng Trị lấy 500.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 29/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của anh K trị giá: 500.000 đồng.

3. Về tội: “Trộm cắp tài sản”:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 9/6/2020, C đến nhà anh Lê Đình K ở tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm của anh K chiếc xe mô tô biển số: 75H5-9296 đem bán cho anh Lê Văn D ở tỉnh Quảng Trị lấy 500.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 298/KL-HĐĐGTS ngày 7/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện Q, kết luận chiếc xe mô tô của anh K trị giá: 2.500.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 07 giờ ngày 11/6/2020, C đến nhà anh Thân Văn C ở huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, lấy trộm của C chiếc xe mô tô biển số: 75V1- 3401 đem bán cho chị Lê Thị M ở tỉnh Quảng Trị lấy 1.000.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 23/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của anh C trị giá: 700.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 07 giờ ngày 12/6/2020, C đến nhà để xe của công ty T ở lấy trộm của anh Trương Đình B chiếc xe mô tô biển số: 75F2-6289 đem đến khu vực cầu vượt T tỉnh Thừa Thiên Huế bán cho một người đàn ông (không rõ tên, tuổi) lấy 500.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 297/KL-HĐĐGTS ngày 7/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện Q, kết luận chiếc xe mô tô của anh B trị giá: 4.750.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 07 giờ ngày 15/6/2020, C đến huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm của chị Nguyễn Thị T chiếc xe mô tô biển số: 51P9-6956 đem bán cho anh Võ Văn D ở tỉnh Quảng Trị lấy 500.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 24/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của chị T trị giá: 500.000 đồng.

Vụ thứ năm: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 16/6/2020, C đến nhà ông Lê C ở huyện Q, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm chiếc xe mô tô biển số: 75K4-9097 đem bán cho anh Trần Văn H ở tỉnh Quảng Trị lấy 700.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 25/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe của ông C trị giá: 500.000 đồng.

Vụ thứ sáu: Khoảng 08 giờ ngày 18/6/2020, C đến khu vực rừng Tràm của Lâm trường P, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm của ông Lê Ích P chiếc xe mô tô biển số: 75H9-2547 đem bán cho anh Hoàng Văn C ở tỉnh Quảng Trị lấy 1.000.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 26/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của ông P trị giá: 500.000 đồng.

Vụ thứ bảy: Khoảng 09 giờ ngày 19/6/2020, C đến khu vực rừng thông huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm của ông Hồ Q chiếc xe mô tô biển: 61L9-0524 đem bán cho anh Hoàng Văn H ở tỉnh Thừa Thiên Huế lấy 700.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 27/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của ông Q trị giá: 600.000 đồng.

Vụ thứ tám: Khoảng 09 giờ ngày 21/6/2020, C đến khu vực rừng tràm Lâm trường P, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm của anh Hà C chiếc xe mô tô biển số: 75K6-9322 đem bán cho anh Hoàng Ngọc T ở tỉnh Quảng Trị lấy 500.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 28/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của anh C trị giá: 500.000 đồng.

Vụ thứ chín: Khoảng 09 giờ ngày 22/6/2020, C đến đoạn đường đang thi công giữa đường tỉnh lộ 9 và tỉnh lộ 11C thuộc địa phận huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm của anh Lê Đức S chiếc xe mô tô biển số: 75H2-4007 đem ra tỉnh Quảng Trị, bán cho một người đàn ông (không rõ họ, tên) lấy 700.000 đồng tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 30/KL-HĐĐGTS ngày 4/8/2020, của Hội đồng định giá UBND huyện P, kết luận chiếc xe mô tô của anh S trị giá: 500.000 đồng.

Với các nội dung trên,

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2020/HS-ST ngày 25/12/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Việt C (U) phạm tội “Trộm cắp tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

[1] Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Việt C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Việt C 09 (chín) tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Việt C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Việt C phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 05/7/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong thời hạn luật định,

Ngày 22/01/2021 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/QĐ-VC2 với nội dung sửa bản án sơ thẩm, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo Lê Việt C về tội “Trộm cắp tài sản” và tăng hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét hành vi của Lê Việt C: Khoảng thời gian từ ngày 09/06/2020 đến 22/6/2020, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Lê Việt C đã thực hiện 09 vụ trộm cắp tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến 4.750.000 đồng, tổng cộng: 11.050.000 đồng; Tháng 7/2019, bị cáo C đã bị Tòa án nhân dân huyện P xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích.

Ngoài ra, từ ngày 13 tháng 5 năm 2020 đến ngày 22 tháng 6 năm 2020, Lê Việt C đã có hành vi: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trị giá: 1.100.000 đồng; “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (02 vụ), tổng trị giá: 20.500.000 đồng.

Án sơ thẩm tuyên bố bị cáo C phạm 03 tội: “Trộm cắp tài sản”; “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, với mức hình phạt của 03 tội là 03 năm 09 tháng tù.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không kháng cáo.

[2]. Xét kháng nghị số 09/QĐ-VC2 ngày 22/01/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, thấy:

Theo lý lịch, Lê Việt C không có nghề nghiệp, trong thời gian ngắn chỉ có 12 ngày đã thực hiện 09 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn các huyện Q, P và thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Ngoài ra, còn có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo có tiền án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Các hành vi phạm tội của bị cáo đều xuất phát từ việc không có việc làm nên nảy sinh việc trộm cắp hoặc dùng phương thức khác để chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm có tiền tiêu xài và xem đây là nguồn thu nhập để sống, hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện liên tiếp trong nhiều ngày. Nên có đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo c theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là bỏ sót tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo C.

Nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, sửa bản án hình sự sơ thẩm về điều khoản áp dụng và tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Việt C không phải chịu.

[4]. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Đề nghị này phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5]. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 của Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/QĐ-VC2 ngày 22/01/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Việt C về tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử:

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Việt C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Việt C 09 (chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

3. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Việt C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự,

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lê Việt C phải chấp hành hình phạt chung của cả 03 (ba) tội là 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 05/7/2020.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Việt C không phải chịu.

5. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

473
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 164/2021/HSPT ngày 09/04/2021 về tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:164/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;