TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NT, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 164/2019/HSST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa đã mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:
1/ VÕ ĐÌNH T – Sinh năm: 1988
Nơi cư trú: Tổ 8 N, N, NT, Khánh Hòa.
Văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không.
Cha: Võ Đình T ( chết). Mẹ: Phạm Thị Thu H – Sinh năm: 1959. Tiền án, tiền sự: Không.
Bắt tạm giữ, tạm giam: 01/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2/ PHẠM VĂN C – Sinh năm: 1987
Nơi cư trú: 2/15 N, V, NT, Khánh Hòa. Văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không Cha: Phạm Văn A – Sinh năm: 1950. Mẹ: Hồ Thị L – Sinh năm: 1950. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án số 80/2010/HSST ngày 27/4/2010 bị Tòa án nhân dân Thành phố NT xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” và phạt tiền 10.000.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/5/2015. Đã đóng án phí và tiền phạt theo quyết định số 299 ngày 10/12/2010 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố NT.
Bị tạm giữ, tạm giam: 01/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3/ DƯƠNG HẢI S ( S Tụ ) – Sinh năm: 1987 1 Nơi cư trú: 94 tổ 4 Đ, V, NT, Khánh Hòa.
Văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Không.
Cha: Không rõ. Mẹ: Dương Thị B ( chết). Tiền sự: Không.
Tiền án: Tại bản án số 156/HSST ngày 08/9/2006 của Tòa án nhân dân Thành phố NT xử phạt 08 năm tù về tội: “ Cướp tài sản” và 05 năm tù về tội: “ Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt tù của hai tội là 13 năm tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/9/2015. Đã đóng án phí theo quyết định số 06 ngày 19/01/2007 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố NT.
Nhân thân:
- Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 2422 ngày 24/7/1999 của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa trong thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 27/7/2001.
- Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số số 109 ngày 09/1/2003 của Chủ tịch UBND Thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa trong thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 29/1/2005.
Bắt tạm giữ, tạm giam: 23/9/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại:
1. Ông Võ Trần T, sinh năm 1997.
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 4, thị trấn C, huyện C, G.
Chỗ ở hiện nay: 14/9 Tổ 15 P, phường V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Minh N, sinh năm 1983
Địa chỉ: Lô 8, số 24 N, H, V, NT.Vắng mặt.
3. Bà Huỳnh Thị Minh T, sinh năm 1975
Chỗ ở: L, K, P, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
4. Ông Đỗ Ngọc Hoàng S, sinh năm 1995
Chỗ ở: Tổ 24 H, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
5. Ông Lê Hoàng K, sinh năm 1993
Chỗ ở: Tổ 4/1 Đ, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
6. Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1988
Chỗ ở: 1049-1051 L, P, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
7. Ông Cao Đức A, sinh năm 1991
Chỗ ở: 1049-1051 L, P, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
8. Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1984
Chỗ ở: Số 01 T, V, NT, Khánh Hòa. Có mặt.
9. Ông Quách Anh T, sinh năm 1993
Chỗ ở: 18 C, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
10. Bà Nguyễn Thị Thu S, sinh năm 1994
Chỗ ở: Đường M, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
11. Bà Phạm Thị Doanh D, sinh năm 1999
Chỗ ở: 111-113 Đ, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
12. Ông Lê Tiến Đ, sinh năm 1988
Chỗ ở: 83 H, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
13. Bà Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1998
Chỗ ở: Ký túc xá Trường C NT, thôn H, xã V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
14. Ông Ngô Thế L, sinh năm 1964
Chỗ ở: 45C Q, L, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
15. Ông Nguyễn Quốc B, sinh năm 1968
Chỗ ở: 37 đ, K P,NT. Vắng mặt.
16. Ông Phan Thanh H, sinh năm 1998
Chỗ ở: 111 Đ, V, NT, Khánh Hòa.
17. Ông Hồ Lê Trung T, sinh năm 1997
Chỗ ở: Tổ 46 T, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
18. Ông Oleksandr A, sinh năm 1983; Quốc tịch: Ukraine
Chỗ ở: Phòng 302 Khách sạn L, đường P, NT. Vắng mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1958
Chỗ ở: 88 L, thị trấn C, huyện T, P. Vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn T Chỗ ở: 11/14 đường 17, k, phường B, quận 2, TP Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974
Chỗ ở: V, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
4. Ông Trần Thanh T, sinh năm 1973
Chỗ ở: Tổ 14 N, N, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Kim Q, sinh năm 1977
Chỗ ở: Khu đô thị L, P, NT. Vắng mặt.
6. Bà Phạm Thị H, sinh năm 1972
Chỗ ở: L, C, C, Khánh Hòa. Có mặt.
7. Bà Nguyễn Thúy L, sinh năm 1998
Chỗ ở: Ký túc xá Trường C NT, 90 N, thôn H, xã V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
8. Bà Lê Thị H, sinh năm 1985
Chỗ ở: Thôn 5, N, N, Khánh Hòa . Vắng mặt.
9. Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1988
Chỗ ở: 96B/4/1 T, L, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
10. Bà Lê Thị Phương T, sinh năm 1978
Chỗ ở: 86/9 Đ, P, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
11. Ông Nguyễn Long Anh H, sinh năm 1980
Chỗ ở: 42 đ, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
12. Ông Trần Tuấn C, sinh năm 1971
Chỗ ở: 8 L, L, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
13. Bà Lê Thị Kim T, sinh năm 1978
Chỗ ở: Lô 14 D, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
Người làm chứng:
1. Ông Ngô Đ, sinh năm 1998.
Chỗ ở: 48B S, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
2. Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1996
Chỗ ở: 58 Đ, V, NT, Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 31/7/2018, Võ Đình T điều khiển xe máy Sirius (chưa rõ biển kiểm soát) đi ngang qua nhà 62A đường A4 khu đô thị VCN P, NT, phát hiện thấy nhiều xe máy để trong sân và không có người trông giữ. T nảy sinh ý định trộm cắp. Sau đó, T chạy xe Sirius đến nhà Dương Hải S để nhờ S chở T quay lại nhà 62A đường A4 khu đô thị VCN P, NT. Khi cả hai đến gần nhà địa chỉ trên thì T bảo S đi về còn T lén lút đột nhập vào trong sân nhà rồi dùng tay bẻ khóa cổ một xe máy hiệu Exciter, màu trắng đen đỏ, biển kiểm soát 79N2-207.48 của anh Hồ Lê Trung T. Sau đó, T lấy đoạn dây kẽm (đã chuẩn bị từ trước) nối dây điện thì thấy đèn đồng hồ sáng, T dắt trộm xe ra ngoài nổ máy và chạy về khách sạn V, địa chỉ: 58 đường Đ, phường V, thành phố NT. Tại đây, T tháo biển kiểm soát 79N2-207.48 của xe Exciter thay bằng biển kiểm soát 59L2-351.99 rồi cất giấu xe tại gầm thang bộ của khách sạn. Đến trưa ngày 01/8/2018, T điều khiển xe Exciter gắn biển kiểm soát 59L2-351.99 vừa đi ra khỏi khách sạn thì bị Cơ quan C an phát hiện đưa về làm việc.
Qua đấu tranh, Võ Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như trên.
Ngày 01/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - công an thành phố NT đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Võ Đình T tại phòng 505 khách sạn V. Qua khám xét, Cơ quan điều tra thu giữ: 04 biển kiểm soát xe máy: 79N2 - 207.48, 79C1 -243.24, 79Z1 – 323.41, 79L9 – 8650, 01 mũ lưỡi trai có dòng chữ Roxy, 01 áo mưa màu xám, 01 “đao” kim loại dài khoảng 30cm, 01 áo thun màu đen, 01 quần lửng màu đen, 01 thanh kim loại chữ L, 01 áo lưới dạ quang, 01 bình thủy tinh và 1,9247g chất tinh thể màu trắng (được niêm phong, ký hiệu A).
Tại bản kết luận giám định số 422/GĐTP/2018 ngày 24/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Khánh Hòa xác định: Tinh thể trong mẫu kí hiệu A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,9247g, là (loại) Methamphetamine.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 335 ngày 02/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 79N2-207.48 có giá trị 39.585.000 đồng (Ba mươi chín triệu năm trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 01/8/2018, Phạm Văn C và Dương Hải S điều khiển xe Exciter (chưa rõ biển kiểm soát) đi vào khu đô thị VCN, phường P, thành phố NT tìm xe máy để trộm cắp. Khi đi đến trước nhà số 97- 99 đường A4, Khu đô thị VCN, P, thành phố NT thì cả hai phát hiện 01 xe máy PCX màu nâu đỏ, biển kiểm soát 79N1- 291.19 của anh Aleksandr A, không có người trông giữ. C đứng ngoài cảnh giới để S đến gần rồi dùng dụng cụ phá khóa phá khóa xe PCX. Sau đó, S điều khiển xe Exciter đẩy C ngồi trên xe PCX vừa trộm cắp đi tìm nơi cất giấu. Khi đến chợ V, thành phố NT thì bị lực lượng tuần tra Cơ quan Cảnh sát điều tra – công an tỉnh Khánh Hòa phát hiện bắt giữ được C cùng tang vật là xe PCX, biển kiểm soát 79N1-291.19, còn S bỏ chạy thoát.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 332 ngày 02/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda PCX biển kiểm soát 79N1- 291.19 có giá trị 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng).
Tiến hành truy xét đến ngày 23/9/2018, Cơ quan điều tra đã đưa Dương Hải S về làm việc. Qua đấu tranh, Phạm Văn C và Dương Hải S đã khai nhận hành vi phạm tội như trên Quá trình đấu tranh mở rộng vụ án xác định Võ Đình T, Phạm Văn C, Dương Hải S và một số đối tượng khác là một nhóm tội phạm trộm cắp xe máy. Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 6/2018 đến ngày 31/7/2018 các đối tượng đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp xe máy trên địa bàn thành phố NT. Cụ thể:
Vụ 1: Khoảng 02 giờ ngày 03/7/2018, T, C và S đi xe máy Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 (xe của T) đến trước tiệm internet Moba 3K, địa chỉ 24/6 Lô 4 đường N, phường V, thành phố NT lấy trộm 01 xe máy Sirius, màu đen xám, biển kiểm soát 81P1- 230.24 của anh Võ Trần T. Sau đó cả ba đưa xe máy vừa trộm cắp được về khách sạn V cất giấu để tìm nơi tiêu thụ.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 279 ngày 18/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 81P1-230.24 có giá trị 18.480.000 đồng (Mười tám triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng).
Vụ 2: Khoảng 03 giờ ngày 03/7/2018, T, C và S tiếp tục điều khiển xe máy Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 đến trước nhà địa chỉ Lô 8, số 24 đường N, V, NT trộm cắp 01 xe máy Airblade, màu trắng xám, biển kiểm soát 79N1-906.19 của anh Nguyễn Minh N rồi đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, T đi bán xe Airblade, biển 5 kiểm soát 79N1-906.19 và xe Sirius, biển kiểm soát 81P1-230.24 cho một thanh niên (chưa xác định lai lịch) ở bến xe phía Bắc thành phố NT được 6.000.000đ (sáu triệu đồng), cả ba chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 342 ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 79N1-906.19 có giá trị 26.980.000 đồng (Hai mươi sáu triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng).
Vụ 3: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/7/2018, C và S đi xe Sirius (chưa rõ biển kiểm soát) đến trước nhà địa chỉ: Lô 30 đường A2, khu đô thị VCN, phường P, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy SH 150i, màu trắng, biển kiểm soát 79N1-50527 của chị Huỳnh Thị Minh T. Sau đó, S đem xe vừa trộm được đi bán cho một thanh niên tên T (chưa rõ lai lịch) với giá 15 triệu đồng rồi về chia cho C 7.000.000đ (bảy triệu đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 284 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 79N1-505.27 có giá trị 36.995.000 đồng (Ba mươi sáu triệu chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
Vụ 4: Khoảng 2 giờ 00 phút ngày 06/7/2018, T, S và 02 thanh niên tên “T” và “Báo” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đi trên xe máy Sirius (chưa rõ biển kiểm soát) và xe Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 đến khu nhà trọ thuộc Tổ 24 H, phườngV, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy Sirius màu đen xám, biển kiểm soát 78H1- 272.51 của anh Đỗ Ngọc Hoàng S để trong sân khu trọ. Sau đó, cả nhóm đưa xe về khách sạn V cất giấu. Đến sáng 07/7/2018, T đem xe Sirius biển kiểm soát 78H1-272.51 đi bán, về chia cho T, S mỗi người 1.000.000đ (một triệu đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 347 ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 78H1-272.51 có giá trị 16.575.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
Vụ 5: Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 08/7/2018, T và C điều khiển xe Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 đi trên đường T, khu vực đối diện nhà 1D, 1E Tòa nhà CT1, Khu đô thị VCN P, thành phố NT phát hiện 01 xe máy Airblade, màu trắng xám, biển kiểm soát 79N1-620.37 của anh Lê Hoàng K, không có người trông coi. C đứng cảnh giới để T dùng dụng cụ phá khóa để phá khóa xe máy trên rồi T nổ máy bỏ chạy. Vì sợ có người đuổi theo nên khi đến bãi đất trống đường A4, phường P, thành phố NT, T đã bỏ chiếc xe trên lại, sau đó C chở T về lại khách sạn V.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 317 ngày 27/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 6 79N1-620.37 có giá trị là: 20.520.000 đồng (Hai mươi triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).
Vụ 6: Khoảng 4 giờ 00 phút ngày 09/7/2018, T, C, S và T (không rõ nhân thân, lai lịch) điều khiển xe máy Sirius (chưa rõ biển kiểm soát) và xe máy hiệu Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 đến C trình nhà đang xây dựng, địa chỉ: 1049- 1051 đường L, phường P, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47K1- 200.24 của anh Nguyễn Minh T và 01 xe máy Airblade, màu trắng đỏ đen, biển kiểm soát 59B1-130.66 của anh Cao Đức A. Sau đó, T đưa xe Sirius vừa trộm cắp được về phòng trọ của T cất giấu còn T đưa xe máy Airblade trộm cắp được về phòng trọ của S trên đường Đ, phường P, thành phố NT. Sau đó, S bán xe Airblade biển kiểm soát 59B1-130.66 cho T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) được 6 triệu và T bán xe Sirius biển kiểm soát 47K1-200.24 được 2,5 triệu nhưng chưa chia tiền bán xe.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 340 ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 47K1-200.24 có giá trị là: 17.253.000 đồng (mười bảy triệu hai trăm năm mươi ba nghìn đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 341 ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 59B1-130.66 có giá trị là: 14.040.000 đồng (mười bốn triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).
Vụ 7: Khoảng 02 giờ 45 phút ngày 12/7/2018, T, S đi xe máy Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 đến quán cà phê K+ H, địa chỉ: 210 đường 2/4, phường V, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy Future, màu nâu vàng đen, biển kiểm soát 79N1- 480.93 của anh Nguyễn Thành L rồi đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, S nhờ T (không rõ nhân thân, lai lịch) đem xe máy Future 79N1-480.93 đi bán được 8.000.000đ (tám triệu đồng) rồi cả ba chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 331 ngày 01/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Future biển kiểm soát 79N1- 480.93 có giá trị là: 13.630.000 đồng (mười ba triệu sáu trăm ba mươi nghìn đồng).
Vụ 8: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 15/7/2018, T, C, S và một thanh niên tên B (chưa rõ lai lịch) đi xe Sirius (chưa rõ biển kiểm soát) và Exciter, biển kiểm soát 59L2- 351.99 đến khách sạn Viet Sea, địa chỉ: 16 L, phường V, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy SH mode, màu trắng nâu, biển kiểm soát 79N1-952.72 của chị Nguyễn Thị Thu S và 01 xe máy Airblade, màu đen bạc, biển kiểm soát 79N2-451.16 của anh Quách Anh T đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, B cho người bị hại chuộc lại xe máy Airblade lấy 10.000.000đ (mười triệu đồng) còn xe máy SH mode T sơn lại màu xám và giữ lại sử 7 dụng, sau đó vi phạm luật giao thông bị Cảnh sát giao thông công an thành phố NT tạm giữ phương tiện.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 285 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda SH mode biển kiểm soát 79N1-952.72 có giá trị là: 37.370.000 đồng (ba mươi bảy triệu ba trăm bảy mươi nghìn đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 286 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 79N2- 451.16 có giá trị là: 44.100.000 đồng (bốn mươi bốn triệu một trăm ngàn đồng).
Vụ 9: Khoảng 21 giờ ngày 24/7/2018, T và S điều khiển xe Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 (xe của T) đi đến dãy nhà trọ địa chỉ: 111 đường Đ, phường V, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy hiệu Honda Winner, màu xanh trắng, biển kiểm soát 79Z1- 323.41 của chị Phạm Thị Doanh D. Sau đó, S bán xe cho người thanh niên tên Tí (chưa rõ lai lịch) ở khu vực lầu 7, phường V, thành phố NT được 8.000.000đ (tám triệu đồng) rồi chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 343 ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Winner biển kiểm soát 79Z1-323.41 có giá trị là: 38.675.000 đồng (ba mươi tám triệu sáu trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
Vụ 10: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 23/7/2018, T và S điều khiển xe Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 (xe của T) đến trước nhà số 83 H, phường V thành phố NT trộm cắp 01 xe máy Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 79C1-243.24 của anh Lê Tiến Đ đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, S đem xe máy Air Blade biển kiểm soát 79C1- 243.24 bán cho T (chưa rõ lai lịch) được 5.000.000đ rồi chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 319 ngày 27/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 79C1-243.24 có giá trị 28.880.000 đồng (Hai mươi tám triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng).
Vụ 11: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 24/7/2018, T và S điều khiển xe Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 (xe của T) đến trước cổng trường C NT, địa chỉ: 90 đường N, xã V, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy Sirius, màu đen trắng, biển kiểm soát 79N1- 042.69 của chị Nguyễn Thị Hồng L đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, S đem xe Sirius biển kiểm soát 79N1-042.69 bán cho người phụ nữ tên L (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực bến xe phía Bắc, phường V, thành phố NT được 3.000.000đ (ba triệu đồng) rồi chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 318 ngày 27/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 79N1- 042.69 có giá trị là 3.952.000 đồng (ba mươi triệu chín trăm năm mươi hai ngàn đồng).
Vụ 12: Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 27/7/2018, T và S điều khiển xe Exciter, biển kiểm soát 59L2-351.99 (xe của T) đi đến hẻm 45C đường Q, phường L, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy hiệu PCX, màu trắng đỏ đen, biển kiểm soát 79N1- 484.88 của anh Ngô Thế L và đưa về nhà S trong hẻm Đ, phường P, thành phố NT cất giấu. Sau đó, T đem xe PCX đi bán cho T (chưa rõ lai lịch) với giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng) rồi chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 344 ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda PCX biển kiểm soát 79N1- 484.88 có giá trị là: 24.960.000 đồng (hai mươi bốn triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).
Vụ 13: Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 28/7/2018, T và S điều khiển xe Suzuki Sport (xe của S, chưa rõ biển số) đi đến trước nhà Lô 37 đường B1 khu đô thị VCN P, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy hiệu PCX, màu trắng, biển kiểm soát 79N1-764.12 của anh Nguyễn Quốc B và đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, S đem xe PCX biển kiểm soát 79N1-764.12 bán cho Nguyễn Long Anh H được 8.000.000đ rồi chia nhau sử dụng hết số tiền trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 330 ngày 01/8/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda PCX biển kiểm soát 79N1- 764.12 có giá trị là: 32.760.000 đồng (ba mươi hai triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).
Vụ 14: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 30/7/2018, T tiếp tục quay lại dãy nhà trọ địa chỉ: 111 đường Đ, phường V, thành phố NT trộm cắp 01 xe máy Exciter màu xám xanh, biển kiểm soát 79Z1-397.02 của anh Phan Thế H đưa về khách sạn V cất giấu. Sau đó, T cho chuộc lại xe lấy 12.000.000đ (mười hai triệu đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 327 ngày 31/7/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 79Z1-397.02 có giá trị 43.680.000 đồng (Bốn mươi ba triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).
Tại bản Cáo trạng số 120/CT-VKSNT ngày 08 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố các bị cáo Võ Đình T, Phạm Văn C và Dương Hải S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo Võ Đình T còn bị truy tố về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.
Đối với Nguyễn Long Anh H là người mua xe do S trộm cắp nhưng không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với các đối tượng “ L”; “ T”; “ T” là những người đã mua xe do S, T, C trộm cắp nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra công an Thành phố NT đang tiếp tục điều tra, xác minh. Khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với các đối tượng T, B, B là những người đã cùng S, C, T trộm cắp nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra công an Thành phố NT đang tiếp tục điều tra, xác minh. Khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng : Tại phiên tòa, vắng mặt những bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Tuy nhiên, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
Các hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong vụ án này đều thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
- [2] Về nội dung : Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Đình T, Phạm Văn C và Dương Hải S đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại; những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Võ Đình T, Phạm Văn C và Dương Hải S thực hiện đã đủ các yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo Võ Đình T còn phạm thêm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.
Xét thấy hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của các bị hại, trong một thời gian ngắn từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2018 các bị cáo đã liên tục liều lĩnh xâm phạm đến tài sản của công dân một cách bất hợp pháp. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm mới tương xứng với hành vi phạm tội. Riêng bị cáo Võ Đình T còn xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy nên cùng cần phải xử lý thật nghiêm. Tuy nhiên, đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo phạm tội nhưng không có sự phân công, bàn bạc mà chỉ mang tính bột phát nhằm bán lấy tiền tiều xài cho cá nhân.
Xét vai trò của từng bị cáo thấy rằ ng :
Đối với bị cáo Võ Đình T: Bị cáo đã tham gia tổng cộng 14 vụ trộm cắp trên địa bàn với tổng giá trị là 421.440.000đ với vai trò chính. Cụ thể bị cáo là người đã nhiều lần trực tiếp vào trộm cắp tài sản nên cần phải áp dụng mức hình phạt cao nhất so với đồng bọn. Ngoài ra, bị cáo còn tàng trữ 1,9247g Methamphetamine để sử dụng. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, chưa tiền án, tiền sự. Bị cáo đã bồi thường cho bị hại Phan Thanh H 12 triệu đồng và được bị hại làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt nên cần xem xét khi lượng hình.
Đối với bị cáo Phạm Văn C: với vai trò là đồng phạm giúp sức ( chở và đứng ngoài canh gác) , bị cáo C tham gia trộm cắp 7 vụ với 9 xe máy có tổng giá trị là 234.238.000đ nên cũng cần phải xử lý nghiêm. Tuy nhiên bản thân bị cáo tại bản án số 80/2010/HSST ngày 27/4/2010 bị Tòa án nhân dân Thành phố NT xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” và phạt tiền 10.000.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/5/2015. Đã đóng án phí và tiền phạt theo quyết định số 299 ngày 10/12/2010 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố NT. Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, chưa tiền án, tiền sự nên cần áp dụng mức hình phạt thấp nhất so với các bị cáo khác là có căn cứ và phù hợp pháp luật.
Đối với bị cáo Dương Hải S: Bị cáo tham gia trộm cắp 13 vụ với 15 xe máy có tổng giá trị là 373.150.000đ. Bản thân có một tiền án, cụ thể tại bản án số 156/HSST ngày 08/9/2006 của Tòa án nhân dân Thành phố NT xử phạt 08 năm tù về tội: “ Cướp tài sản” và 05 năm tù về tội: “ Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt tù của hai tội là 13 năm tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/9/2015, đã đóng án phí theo quyết định số 06 ngày 19/01/2007 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố NT nhưng từ tháng 6/2018 đến tháng 8/2018 bị cáo lại tiếp tục phạm tội với giá trị tài sản rất lớn nên thuộc trường hợp “ tái phạm nguy hiểm”. Nhân thân xấu cụ thể: Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 2422 ngày 24/7/1999 của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa trong thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 27/7/2001; Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số số 109 ngày 09/1/2003 của Chủ tịch UBND Thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa trong thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 29/1/2005 nên cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm nhưng thấp hơn so với bị cáo Võ Đình T mới đủ sức răn đe và có tác dụng giáo dục.
[3] Về dân sự:
1/ Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Thành Lễ yêu cầu các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải bồi Tờng số tiền theo giá của Hội đồng định giá là 13.630.000đ. Xét thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S đều tự nguyện sẽ bồi Tờng cho anh Lễ số tiền nói trên. Sự thỏa thuận giữa bị hại và các bị cáo là tự nguyện và phù hợp pháp luật, nghĩ nên ghi nhận. Do đó, các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải liên đới bồi thường cho anh Nguyễn Thành L số tiền là 13.630.000đ. Cụ thể mỗi bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải có trách nhiệm bồi thường cho Nguyễn Thành L số tiền là 6.815.000đ.
2/ Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H yêu cầu các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải bồi Tờng số tiền theo giá của Hội đồng định giá là 30 triệu đồng. Xét thấy: Theo biên bản xác minh phương tiện cơ giới đường bộ thì bà Phạm Thị H là chủ sở hữu của xe máy 79Z1 – 323.41 . Bà H giao cho con gái là chị Phạm Thị Doanh D sử dụng. Các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S đã trộm cắp chiếc xe máy nói trên của chị Phạm Thị Doanh D nên các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại. Tại phiên tòa, chị Phạm Thị Doanh D vắng mặt nhưng chủ sở hữu là bà Phạm Thị H yêu cầu các bị cáo phải bồi thường là có căn cứ và phù hợp pháp luật. Các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S tự nguyện đồng ý sẽ bồi thường cho bà Phạm Thị H số tiền 30 triệu đồng. Sự thỏa thuận giữa bà Phạm Thị H với các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật, nghĩ nên ghi nhận. Do đó, các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải liên đới bồi thường cho bà Phạm Thị H số tiền là 30.000.000đ. Cụ thể mỗi bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Phạm Thị H số tiền là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).
Các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên tách ra để giải quyết thành vụ án dân sự khác khi có đơn yêu cầu.
[4] Vật chứng Cơ quan điều tra thu giữ một số đồ vật sau:
- 01 biển số xe máy 59L2 – 351.99 Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố NT với Cơ quan Chi cục thi hành án dân sự Thành phố NT lập ngày 10/6/2019.
- 01 thanh sắt và 01 khối kim loại hình lục giác.
- 01 mũ lưỡi trai có dòng chữ Ro xy.
- 01 cây đao kim loại dài khoảng 30cm, 01 áo thun màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 thanh kim loại chữ L; 01 áo lưới dạ quang; 01 bình thủy tinh; 02 áo mưa.
- 01 phong bì bên trong có chứa 1,7371g ma túy Methamphetamine - 03 biển số xe máy 79C1 – 24324; 79Z1 – 323.41; 79L9 – 8650.
Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố NT với Cơ quan Chi cục thi hành án dân sự Thành phố NT lập ngày 19/4/2019.
- 01 biển số 73V1 – 2993 (đã qua sử dụng) Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố NT với Cơ quan Chi cục thi hành án dân sự Thành phố NT lập ngày 05/4/2019.
Xét thấy : Tất cả số vật chứng nêu trên đều không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.
[5] Án phí: Các bị cáo Võ Đình T, Phạm Văn C và Dương Hải S mỗi người phải nộp 200.000đ án phí HS.ST.
Bị cáo Võ Đình T phải nộp án phí DSST là 1.090.750đ.
Bị cáo Dương Hải S phải nộp án phí DS.ST là 1.090.750đ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố : Các bị cáo Phạm Văn C và Dương Hải S ( S Tụ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo Võ Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b, s khoản 1, 2 điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo Võ Đình T.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 đối với bị cáo Phạm Văn C.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b, g, h khoản 1 điều 52 BLHS năm 2015 đối với bị cáo Dương Hải S.
Xử phạt : Bị cáo Võ Đình T 13 (Mười ba) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 01 ( một) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Võ Đình T phải chấp hành cho cả hai tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam: 01/8/2018.
Xử phạt Bị cáo Dương Hải S (S Tụ) 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23/9/2018.
Xử phạt : Bị cáo Phạm Văn C 08 (Tám) năm tù . Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 01/8/2018.
Về dân sự Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với các bị cáo. Cụ thể:
1/ Các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải liên đới bồi thường cho anh Nguyễn Thành L số tiền là 13.630.000đ (Mười ba triệu sáu trăm ba mươi nghìn đồng). Cụ thể mỗi bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải có trách nhiệm bồi thường cho Nguyễn Thành L số tiền là 6.815.000đ (Sáu triệu tám trăm mười lăm nghìn đồng).
2/ Các bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải liên đới bồi thường cho bà Phạm Thị H số tiền là 30.000.000đ. Cụ thể mỗi bị cáo Võ Đình T và Dương Hải S phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Phạm Thị H số tiền là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).
Các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên tách ra để giải quyết thành vụ án dân sự khác khi có đơn yêu cầu.
Vật chứng Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy các đồ vật sau:
01 biển số xe máy 59L2 – 351.99 01 thanh sắt và 01 khối kim loại hình lục giác.
01 mũ lưỡi trai có dòng chữ Ro xy.
01 cây đao kim loại dài khoảng 30cm, 01 áo thun màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 thanh kim loại chữ L; 01 áo lưới dạ quang; 01 bình thủy tinh; 02 áo mưa.
01 phong bì bên trong có chứa 1,7371g ma túy Methamphetamine 03 biển số xe máy 79C1 – 24324; 79Z1 – 323.41; 79L9 – 8650.
01 biển số 73V1 – 2993 (đã qua sử dụng) Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố NT với Cơ quan Chi cục thi hành án dân sự Thành phố NT lập ngày 05/4/2019, 19/4/2019 và ngày 10/6/2019.
Án phí: Các bị cáo Võ Đình T, Phạm Văn C và Dương Hải S mỗi người phải nộp 200.000đ án phí HS.ST.
Bị cáo Võ Đình T phải nộp án phí DS.ST là 1.090.750đ. (Một triệu không trăm chín mươi nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
Bị cáo Dương Hải S phải nộp án phí DS.ST là 1.090.750đ. (Một triệu không trăm chín mươi nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
Quyền kháng cáo: Các bị cáo; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
Bản án 164/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 164/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về