Bản án 163/2021/HNGĐ-ST ngày 07/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ X, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 163/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 07 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 233/2021/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 282/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1973 Cư trú: Số 52/14 khóm D, phường B, thành phố X, tỉnh An Giang

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Phước H, sinh năm 1973 Cư trú: Cồn Phó 3, ấp M, xã H1, thành phố X, tỉnh An Giang.

Tại phiên tòa bà Th vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt), ông H vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Th trình bày:

Bà Nguyễn Thị Kim Th và ông Huỳnh Phước H tự nguyện quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H1 năm 2000. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt. Mâu thuẫn giữa vợ chồng xuất phát từ việc ông H cờ bạc, không chí thú làm ăn, bỏ bê vợ con, gây nợ liên tục. Bà Th đã nộp đơn ly hôn năm 2008 nhưng do con còn nhỏ, Tòa án động viên vợ chồng đoàn tụ lại để ông H sửa sai và không chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà. Nhưng sau đó ông H không sửa đổi, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ năm 2008 đến nay. Từ lúc đó đến nay, hai vợ chồng bà không còn chung sống, một mình bà Th chật vật mưu sinh lo cho các con đến bây giờ. Nay tình cảm không còn, cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục, kéo dài không có hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng nên bà Th yêu cầu được ly hôn. Hiện nay ông H có gia đình khác hay chưa bà cũng không biết vì đã lâu lắm không liên lạc. Mười mấy năm nay ông H không liên lạc gì với vợ con, chỉ có thời gian gần đây lúc bà nộp đơn khởi kiện ra Tòa án rồi thì ông H mới lên mạng liên lạc với con gái.

Về con chung: Bà Th và ông H có 02 con chung là cháu lớn Huỳnh Thị Mỹ Ph, sinh năm 2001, hiện đã trưởng thành và tự lo cho bản thân; cháu nhỏ Huỳnh Công Kh, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2003, hiện nay vẫn đang sống với bà Th nên bà Th yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Đối với tài sản chung và nợ chung: Bà Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Huỳnh Phước H: Vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không cung cấp tài liệu, chứng cứ, ý kiến cho Tòa án.

Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt nên không hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Tại phiên tòa, bà Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; ông H vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Bà Th và ông H tự nguyện tìm hiểu thông qua mai mối và tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn năm 2000 tại Ủy ban nhân dân xã H1. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2008. Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên bà Th xin ly hôn với ông H. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án tạo điều kiện hòa giải nhưng bà Th kiên quyết xin ly hôn. Nhận thấy tình cảm vợ chồng bà Th không còn, mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: Cháu Huỳnh Thị Mỹ Ph, sinh năm 2001 đã trưởng thành, đủ khả năng lao động. Đối với cháu Huỳnh Công Kh, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2003 hiện đang sống cùng mẹ và có nguyện vọng được sống cùng mẹ nếu cha mẹ ly hôn. Nhằm tạo điều kiện ổn định cuộc sống cho cháu nên đề nghị giao cháu Khanh cho bà Th nuôi dưỡng, bà Th không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Bà Th phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, kiểm sát viên và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Kim Th và ông Huỳnh Phước H kết hôn có đăng ký kết hôn; bà Th khởi kiện ông H là người hiện đang cư trú trên địa bàn thành phố X và yêu cầu giải quyết ly hôn, con chung. Nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh An Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Bà Th có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung tranh chấp:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Th và ông H tự nguyện quen biết, tìm hiểu nhau và tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H1, thành phố X. Bà Th cho rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn xuất phát từ việc ông H cờ bạc, không chí thú làm ăn, không có trách nhiệm với vợ con. Xét thấy: Để cuộc sống gia đình hạnh phúc, mục đích hôn nhân đạt được thì vợ chồng phải có tình cảm tự nguyện từ hai phía, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Nhưng bà Th xác định không còn tình cảm với ông H, trước đây bà đã xin ly hôn nhưng không được Tòa án chấp nhận sau đó ông H vẫn không sửa sai, nên bà kiên quyết xin ly hôn, không có nguyện vọng đoàn tụ. Còn ông H dù được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không cung cấp ý kiến, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, không thể hiện nguyện vọng hàn gắn đoàn tụ gia đình. Mặt khác, bà Th và ông H không còn chung sống với nhau đã lâu, từ năm 2008 đến nay. Những vấn đề này thể hiện mâu thuẫn của bà Th và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Th là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Bà Th xác định bà và ông H có hai con chung là Huỳnh Thị Mỹ Ph, sinh năm 2001, hiện đã trưởng thành và tự lo cho bản thân; và Huỳnh Công Kh, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2003, hiện nay vẫn đang sống với bà Th. Xét thấy: Từ năm 2008 đến nay bà Th là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc em Kh. Em Kh cũng có ý kiến mong muốn được tiếp tục sống với bà Th. Ông H không có ý kiến về việc nuôi con, cấp dưỡng cho con. Do đó, cần ổn định việc nuôi con để tránh ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, tinh thần của con chung, tạo điều kiện cho con chung phát triển bình thường; nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Th về việc bà được trực tiếp nuôi em Kh và ông H không phải cấp dưỡng cho con. Đối với em Ph đã thành niên, có khả năng lao động, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th trình bày ông H và bà Th không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. ông H cũng không có ý kiến về vấn đề này, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Bà Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147; 227; 238; 271; 273; 278; 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự - Các Điều 9; 51; 53; 56; 58; 81; 82; 83; 84; 107; 110; 116; 117; 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Th được ly hôn với ông Huỳnh Phước H.

2. Về con chung:

Bà Nguyễn Thị Kim Th và ông Huỳnh Phước H có 02 (hai) con chung là Huỳnh Thị Mỹ Ph, sinh ngày 13 tháng 9 năm 2001 và Huỳnh Công Kh, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2003.

Bà Nguyễn Thị Kim Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, trông nom, giáo dục em Huỳnh Công Kh. Bà Nguyễn Thị Kim Th và thành viên gia đình không được cản trở ông Huỳnh Phước H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục em Huỳnh Công Kh.

Ông Huỳnh Phước H không phải cấp dưỡng cho em Huỳnh Công Kh.

Em Huỳnh Thị Mỹ Ph đã thành niên, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị Kim Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số 0002029 ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố X.

Ông Huỳnh Phước H không phải chịu án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 163/2021/HNGĐ-ST ngày 07/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:163/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;