TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 162/2021/HSPT NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2021/TLPT-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021, do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Ngọc L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hoàng Ngọc ; Sinh năm 1985, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ 2, phường Đ, thị xã H, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: không rõ cha; Con bà: Hoàng Thị T (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2020 đến ngày 26/11/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn, từ tạm giam sang biện pháp bảo lĩnh. Hiện bị cáo đang tại ngoại – có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 29/10/2020, Hoàng Ngọc L, điều khiển xe ô tô 47A – 326.05 (xe mượn của bà Hoàng Thị S – dì ruột của L) lên thành phố B để giải quyết việc cá nhân. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi L dừng xe tại khu vực ngã ba R, thị xã H, tỉnh Đắk Lắk thì có một người phụ nữ đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen đến đặt vấn đề nhờ L chở hàng về chợ A, thành phố B với giá 500.000 đồng. L đồng ý và đi theo người phụ nữ này đến đoạn đường nhựa cách ngã ba R khoảng 1,5 km để bốc hàng. Tại đây, L thấy có 01 xe máy cày cùng hai người đàn ông đã đợi sẵn, trên xe máy cày có các bao xác rắn màu xanh, một số túi nilong màu đen và một thùng carton dán kín. Sau đó, hai người đàn ông đưa các bao hàng lên để L xếp vào trong ô tô. Quá trình xếp hàng L nói với người phụ nữ “đây là hàng cấm mà”, người này nói lại “đừng lo, có chị dẫn đường”. Biết rõ toàn bộ hàng đều là thuốc lá điếu hiệu Jet và Hero (là hàng cấm), nhưng vì ham tiền vận chuyển nên L vẫn tiếp tục xếp hết số thuốc lá lên xe. Sau đó, L một mình điều khiển xe ô tô về hướng thành phố B. Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, khi L điều khiển xe ô tô đến đoạn km 1761+800 đường Hồ Chí Minh thuộc xã U, huyện C, tỉnh Đắk Lắk thì bị Cơ quan điều tra phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên xe ô tô có 10 bao xác rắn màu xanh, 06 túi nilong màu đen và 01 thùng carton. Trong đó, 10 bao xác rắn chứa 5000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, 06 túi nilong chứa 1500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet và trong 01 thùng carton chứa 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero. Tổng cộng 7000 bao thuốc lá điếu. Tất cả số thuốc lá điếu trên đều in bằng chữ nước ngoài, không có tem nhãn xác định nguồn gốc xuất xứ. Tại thời điểm kiểm tra, L không xuất trình được hồ sơ, giấy tờ chứng minh nguồn gốc của toàn bộ số hàng hóa nói trên.
Tại bản kết luận giám định ngày 02/11/2020 của Sở Công thương tỉnh Đắk Lắk kết luận: 7000 bao thuốc lá điếu đã thu giữ của L là hàng không sản xuất tại Việt Nam (là hàng nhập lậu).
Bản cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 03/02/2021,Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar đã truy tố bị cáo Hoàng Ngọc L về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự .
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2021/HS-ST ngày 05/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh ắk ắk, đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Ngọc L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”, theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự.
- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc L: 03 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2020 đến ngày 26/11/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý về trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/3/2021, bị cáo L kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo L 03 năm tù về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và mức hình phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo bị mồ côi từ nhỏ bị cáo được ông ngoại trực tiếp nuôi dưỡng. Ông ngoại bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng nhiều huân huy chương. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn (hộ nghèo). Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng.
Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Ngọc L theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho hưởng án treo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ 20 phút ngày 29/10/2020, tại km1761+800 đường Hồ Chí Minh thuộc xã U, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, Hoàng Ngọc L đã có hành vi vận chuyển 7000 bao thuốc lá điếu không sản xuất ở Việt Nam (là hàng nhập lậu), trong đó có 6500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero thì bị phát hiện bắt quả tang. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo L về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, HĐXX thấy rằng mức hình phạt 03 (ba) năm tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là thỏa đáng tương xứng với mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, việc bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là không cần thiết. Bởi lẽ, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo bị mồ côi từ nhỏ nên được ông ngoại là Hoàng Ngọc L1 trực tiếp nuôi dưỡng, bị cáo có ông ngoại là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng huân huy chương. Bản thân và gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn (hộ nghèo). Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Xét thấy, bản thân bị cáo có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly với xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tự cải tạo, dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng đảm bảo được việc cải tạo, giáo dục bị cáo.
Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân tốt, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Ngọc L - Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 10/2021/HSST ngày 05/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Ngọc L 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Hoàng Ngọc L cho UBND phường Đ, thị xã H, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
[2] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hoàng Ngọc L không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm , không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 162/2021/HSPT ngày 28/06/2021 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 162/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về