Bản án 16/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lim Văn N. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1990 tại huyện Q C, tỉnh N.

Nơi cư trú: Bản K N, xã C H, huyện Q C, tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 4/12. Dân tộc: Thái. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lim Văn T và bà Vi Thị H. Vợ: Lương Thị S (Đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/12/2023 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do là người nghiện chất ma tuý nên vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 13/12/2023, Lim Văn N một mình đi bộ từ nhà ở bản K N, xã C H, huyện Q C, tỉnh N đến khu vực đồi keo giáp ranh địa giới giữa xã C H và xã C H, huyện Q C để tìm mua ma tuý về sử dụng. Tại đây, N gặp một người đàn ông không quen biết và mua với người này 03 (ba) gói ma tuý với số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), sau khi mua được ma tuý N cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi N đang đi bộ trên đoạn đường thuộc bản K N, xã C H, huyện Q C thì bị tổ công tác Công an xã C H, huyện Q C yêu cầu dừng lại để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra tổ công tác đã phát hiện trong túi quần bên phải đang mặc của N có 03 (ba) gói đều có đặc điểm bên ngoài bọc bằng mảnh giấy bạc màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa chất rắn màu trắng (Nghi là ma tuý).

Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, đồng thời đưa người cùng tang vật về trụ sở để điều tra làm rõ.

Tại bản Kết luận giám định số 1060/KL-KTHS (Đ2-MT) ngày 18/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: 03 (ba) mẫu chất rắn màu trắng (ký hiệu M1, M2, M3) thu giữ của Lim Văn N gửi giám định đều là ma tuý, loại Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine, có tổng khối lượng là 0,45g (Không phảy bốn mươi lăm gam).

Cáo trạng số 13/CT-VKS-QC ngày 30/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh N đã quyết định truy tố bị cáo Lim Văn N ra trước Tòa án để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Đề nghị xử phạt Lim Văn N từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Căn cứ khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 0,255g (Không phảy hai trăm năm mươi lăm gam) Heroine, các mảnh giấy bạc màu trắng cùng toàn bộ vỏ bao niêm phong cũ được bỏ toàn bộ vào trong một phong bì thư dán kín và niêm phong lại. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung truy tố của Cáo trạng và không có ý kiến gì trong phần tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra và truy tố đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo:

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định được bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy nên vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 13/12/2023, bị cáo một mình đi bộ từ nhà ở bản K N, xã C H, huyện Q C, tỉnh N đến khu vực đồi keo giáp ranh địa giới giữa xã Ch H và xã C H, huyện Q C gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 03 (ba) gói ma tuý với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo đang đi bộ trên đoạn đường thuộc bản K N, xã C H, huyện Q C thì bị Công an phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, đồng thời thu giữ 03 (ba) gói ma tuý có tổng khối lượng 0,45g (Không phảy bốn mươi lăm gam).

Thấy rằng lời khai của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là thống nhất với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,45g ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng. Vì vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lim Văn N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS đúng như nội dung truy tố của Cáo trạng.

Trong vụ án này còn có người đàn ông đã bán ma tuý cho bị cáo vào ngày 13/12/2023. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên không đủ căn cứ để xử lý.

[3] Xét tính chất của vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo có đủ nhận thức nhất định về pháp luật để biết rằng các loại ma túy nói chung là chất gây nghiện được Nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép nhưng bị cáo đã không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân, coi thường kỷ cương pháp luật, mặc dù là người nghiện chất ma túy nhưng đã không thật sự có ý thức cai nghiện để từ bỏ ma túy mà còn tìm mua ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm và có một mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ ăn năn hối cải, đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS quy định: ‘‘Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ…’’. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản và không có khả năng thi hành án. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Q đã thu giữ của bị cáo 0,45g (Không phảy bốn mươi lăm gam) ma túy loại Heroine, đã trích 0,195g (Không phảy một trăm chín mươi lăm gam) gửi đi giám định, nay còn lại 0,255g (Không phảy hai trăm năm mươi lăm gam) ma tuý loại Heroine, các mảnh giấy bạc màu trắng và toàn bộ vỏ bao niêm phong cũ được bỏ vào trong một phong bì thư dán kín. Cần căn cứ quy định tại Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Lim Văn N 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 13/12/2023.

Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 0,255g (Không phảy hai trăm năm mươi lăm gam) ma tuý loại Heroine, các mảnh giấy bạc màu trắng và toàn bộ vỏ bao niêm phong cũ được bỏ vào một phong bì thư dán kín và niêm phong lại theo quy định.

(Tất cả vật chứng nói trên có đặc điểm như mô tả trong Biên bản giao, nhận vật chứng được lập vào hồi 14 giờ 20 phút, ngày 31/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q và Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh N).

Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc Lim Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;