Bản án 16/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 20/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 10/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Hà Văn C, sinh ngày 29 tháng 8 năm 1993, tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn C1, sinh năm 1965 và bà Hà Thị N, sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa từng bị kết án, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật, bị cáo khai có sử dụng nghiện chất ma túy.

Bị tạm giữ từ ngày 12/10/2023, chuyển tạm giam từ ngày 21/10/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hà Thị N, sinh năm 1971; nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 12/10/2023, tổ công tác Công an huyện Mai Châu, Công an xã Cun Pheo, Công an xã Hang Kia, Công an xã Pà Cò đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Pheo, xã Cun Pheo, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình thì phát hiện Hà Văn C, sinh năm 1993, nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện M, tỉnh Hòa Bình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 29L6-42xx đi hướng từ xóm Táu Nà, xã Cun Pheo đi ra khu vực xã Bao La, huyện Mai Châu có nhiều biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện trong túi áo bên phải của C đang mặc có 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Cường khai nhận đó là ma túy của C tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Tại Cơ quan điều tra Hà Văn C khai nhận về nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 11 giờ ngày 12/10/2023, Hà Văn C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 29L6-42xx đi từ nhà lên khu vực xóm Thung Mặn, xã Hang Kia để tìm mua ma túy. Khi đang đi trên đường dân sinh thuộc xóm Thung Mặn thì C gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, C dừng xe hỏi và mua được 200.000 đồng ma túy từ người đàn ông trên. Khi nhận được ma túy, C tìm bãi đất trống và sử dụng đi một phần, số còn lại C cất vào túi áo khoác bên phải rồi điều khiển xe đi về, khi đi đến xóm Pheo, xã Cun Pheo, huyện Mai Châu thì bị Công an huyện Mai Châu bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 442/KL-KTHS ngày 20/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hoà Bình kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng là vật chứng thu giữ của Hà Văn C có khối lượng 0,16 gam, là ma túy, loại Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 11/CT-VKSMC ngày 26 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Hà Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hà Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Hà Văn C từ 12 tháng đến 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/10/2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng sử dụng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

- Tuyên tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định số còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát 29L6-42xx. Kết quả điều tra xác định xe mô tô trên do bà Hà Thị N, sinh năm 1971, nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện M, tỉnh Hòa Bình đang là người quản lý, sử dụng. Việc C sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy bà N không biết, không liên quan. Tuy nhiên chiếc xe này qua điều tra về số khung không khớp giữa đăng ký xe và khung xe; không khớp nhãn hiệu giữa đăng ký xe và nhãn hiệu trên xe, tên chủ sở hữu trong đăng ký xe là Đặng Bích H, hơn nữa tại cơ quan điều tra bà N nêu trong đơn xin lại tài sản là mua xe của chị Đặng Bích H, thường trú tại Công ty chè K, Mai Đình, Sóc Sơn, Hà Nội;

tại biên bản lấy lời khai bà N khai là mua của anh K gần nhà, tại phiên tòa trình bày là mua của anh K gần nhà. Như vậy chiếc xe mô tô này có các dấu hiệu không đủ điều kiện tham gia giao thông và chưa đủ căn cứ xác định ai là chủ sở hữu hợp pháp. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử giao chiếc xe mô tô nêu trên cho cơ quan Công an huyện Mai Châu để tiếp tục xác minh làm rõ giải quyết, xử lý theo thẩm quyền.

Về vấn đề khác:

- Đối với người đã bán ma túy cho Hà Văn C, quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, không biết là ai nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo không thuê Luật sư hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình, bị cáo do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Bị cáo đã tự ý lấy xe của bà Hà Thị N để tìm mua ma túy, bà Nguyệt không biết, không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hà Thị N: Ngày 12/10/2023 bị cáo Hà Văn C tự ý lấy xe của bà N đi đâu làm gì bà N không biết, bà N trình bày là mua xe của anh K gần nhà bà cùng địa chỉ với bà. Sau khi nghe Hội đồng xét xử nêu về tình trạng chiếc xe bà đã đồng ý với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29L6-42xx và không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội: Bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 12/10/2023, tại khu vực xóm Pheo, xã Cun Pheo, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình tổ công tác Công an huyện Mai Châu phối hợp với Công an xã Cun Pheo, Công an xã Hang Kia, Công an xã Pà Cò bắt quả tang Hà Văn C, đang tàng trữ trái phép 0,16 gam ma túy, loại Heroine. Kết quả điều tra xác định số ma túy trên là do C mua với một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại đoạn đường thuộc xóm Thung Mặn, xã Hang Kia, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình vào trưa ngày 12/10/2023 với số tiền 200.000 đồng. Mục đích C mua và tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích khác. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Hà Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp phòng, chống tiến tới loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, tiền án, tiền sự, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nhưng phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Hà Văn C phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Hà Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Hà Văn C 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 12/10/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine sau khi giám định, số còn lại đã hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì.

- Giao chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29L6-42xx cho cơ quan Công an huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình để tiếp tục xác minh làm rõ giải quyết, xử lý theo thẩm quyền.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm cụ thể của các vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 24/THA ngày 22/02/2024 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Hà Văn C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;