TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH L
BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2024/TLST – HS ngày 04/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 12/01/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lù Văn H (tên gọi khác: Không có); Giới tính: Nam, sinh năm 1982 tại tỉnh L; Nơi cư trú: Bản X, xã S, huyện T, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông Lù Văn S (đã chết) và bà Lò Thị P (đã chết); Vợ: Giàng Mỳ Ph, sinh năm 1996 (đã ly hôn); Con: Có 01 con, sinh năm 2018; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Tiền án: Không; Tiền sự: Có 02 tiền sự:
+ Ngày 07/7/2022, bị cáo bị Công an huyện Mường Tè, tỉnh L ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, mức tiền phạt là 2.000.000 đồng. Ngày 24/11/2022, bị cáo đã chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên. Tính đến ngày 28/9/2023, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính (01 năm) thì bị cáo lại thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
+ Ngày 07/9/2023, bị cáo bị Công an thành phố L, tỉnh L ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, mức tiền phạt là 200.000 đồng. Ngày 25/9/2023, bị cáo đã chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên nH đến thời điểm hiện tại chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
- Nhân thân: Tại bản án số 116/2012/HSST ngày 19/4/2012 của Toà án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 28 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và buộc phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 27/12/2013, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù và đã chấp hành xong quyết định của bản án về án phí nên đã được xoá án tích.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 01/10/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 28/9/2023, Lù Văn H bắt xe khách từ nhà tại bản 46, xã S, huyện T, tỉnh L đến bến xe khách tỉnh L, thuộc Tổ 26, phường Đông Phong, thành phố L để bắt khách thuê cho các xe khách. Đến khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, H lên cơn nghiện ma túy nên một mình đi bộ từ bến xe khách tỉnh L theo hướng đi xã San Thàng, thành phố L để tìm mua Heroine sử dụng. Khi H đi bộ đến khu vực ngã ba thuộc bản Chin Chu Chải, xã San Thàng thì H gặp và xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch đến bản Lở Thàng 1, xã Thèn Sin, huyện T. Đến nơi, H xuống xe rồi một mình đi bộ tìm mua Heroine để sử dụng. Tại khu vực gần Nhà văn hóa bản Lở Thàng 1, H gặp một người đàn ông lạ mặt khoảng 30 tuổi, nhìn giống người nghiện ma túy nên đã đến nhờ người này mua hộ 300.000 đồng Heroine, người này đồng ý.
Người này nhận tiền của H rồi bỏ đi khoảng 10 phút thì quay lại đưa cho H 01 gói Heroine được gói bằng 01 mảnh giấy bạc có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng. H nhận gói Heroine rồi cấu một ít Heroine cho người này, số Heroine còn lại H chia làm 02 phần, 01 phần H dùng mảnh giấy bạc nói trên gói lại, phần còn lại H nhặt 01 mảnh giấy màu trắng, có in chữ ở đường gói lại. H cất giấu cả 02 gói Heroine vào trong chiếc ví giả da màu nâu của H rồi cất chiếc ví vào túi quần phía sau, bên phải đang mặc trên người và đi bộ về bến xe khách tỉnh L. Trên đường về, H gặp xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch đến bản Chin Chu Chải, xã San Thàng thì xuống xe đi bộ về bến xe. Hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi H vừa về đến bến xe khách tỉnh L và đang đi bộ trong bến xe thì bị tổ công tác Phòng PC04 Công an tỉnh L kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là 02 gói Heroine H đang tàng trữ để sử dụng.
Tại bản Kết luận giám định số 1044/KL-KTHS ngày 28/9/2023 và số 1045/KL-KTHS ngày 30/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: 02 gói chất bột màu trắng thu giữ của Lù Văn H trong quá trình bắt quả tang ngày 28/9/2023 có tổng khối lượng là 0,33 gam (Gói 1: 0,11 gam; gói 2: 0,22 gam). 02 mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1 và M2) gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
Cáo trạng số 04/CT- VKSTP, ngày 04/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố Lù Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lù Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lù Văn H mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/9/2023.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
- Về vật chứng vụ án: Đối với 0,33 gam Heroine thu giữ của Lù Văn H đã gửi toàn bộ đi giám định tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L, không hoàn lại mẫu vật, nên không đề nghị xem xét, giải quyết. Đối với các vật chứng còn lại gồm: 01 mảnh giấy bạc một mặt màu vàng, một mặt màu trắng; 01 mảnh giấy màu trắng có in chữ; 01 ví giả da màu nâu, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu, tiêu hủy.
Tại phiên tòa bị cáo Lù Văn H khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo và không tranh luận với quan điểm của Viện kiểm sát.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai đã khai báo tại cơ quan điều tra về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, cũng như vật chứng thu giữ trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 30 phút ngày 28/9/2023, tại khu vực bến xe khách tỉnh L thuộc Tổ 26, phường Đông Phong, thành phố L, tỉnh L, bị cáo Lù Văn H đang tàng trữ trái phép 0,33 gam Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác Phòng PC04 Công an tỉnh L phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo Lù Văn H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;
Điều luật quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng:
Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện độc hại phá hủy trực tiếp hệ thần kinh trung ương của người sử dụng, làm cho họ phụ thuộc vào chất ma túy, hủy hoại sức khỏe của những người sử dụng, làm cho họ dần dần không còn khả năng lao động và sinh sống bình thường và làm khánh kiệt kinh tế của gia đình. Việc sử dụng ma túy còn làm cho người sử dụng không thể điều khiển được hành vi của mình và có thể dẫn đến các hành vi nguy hiểm cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã và đang tích cực phòng chống để đẩy lùi và loại trừ ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây ra nH để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 bị cáo bị Toà án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt 28 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, hiện đã được xoá án tích. Bị cáo có 02 tiển sự: 01 tiền sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc”, hiện chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính . Lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân, nH bị cáo lại tiếp tục phạm tội, điều đó cho thấy bị cáo là người coi thường pháp luật, ham chơi, lười lao động, khó cải tạo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án:
- 0,33 gam Heroine thu giữ của Lù Văn H đã gửi toàn bộ đi giám định tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L, không hoàn lại mẫu vật, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
- 01 mảnh giấy bạc một mặt màu vàng, một mặt màu trắng; 01 mảnh giấy màu trắng có in chữ (được đựng trong phong bì niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang); 01 chiếc ví giả da màu nâu. Xét đây là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[8] Trong vụ án này:
Bị cáo Lù Văn H khai nguồn gốc 0,33 gam Heroine bị thu giữ là do H nhờ một người đàn ông mua hộ với giá 300.000 đồng tại bản Lở Thàng 1, xã Thèn Sin, huyện T, tỉnh L. Tuy nhiên H không biết nhân thân lai lịch và không nhớ đặc điểm nhận dạng người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.
Đối với 02 người đàn ông đã cho Lù Văn H đi nhờ xe trong quá trình H đi mua Heroine. Quá trình điều tra H khai nhận không biết nhân thân lai lịch của những người này, không nhớ đặc điểm phương tiện họ sử dụng, những người này không liên quan đến hành vi phạm tội của H. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.
[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lù Văn H là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và đề nghị của bị cáo. Do đó, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù Văn H.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lù Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2] Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Lù Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/9/2023.
[3] Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy một phong bì công văn của Công an tỉnh L, không còn nguyên vẹn, theo hồ sơ bên trong có 01 mảnh giấy màu trắng có in chữ; 01 mảnh giấy bạc một mặt màu vàng, một mặt màu trắng. Vật chứng thu giữ của Lù Văn H, sinh năm 1982 trú tại bản 46, xã S, huyện T, tỉnh L bị phòng PC04 bắt ngày 28/9/2023.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc ví giả da màu nâu.
(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 15 phút ngày 09/01/2024, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L).
[4] Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù Văn H.
[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 16/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về