TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN SỐ 16/2024/HS-PT NGÀY 05/04/2024 VỀ TỘI GÁ BẠC
Ngày 05 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 03/2024/TLPT-HS ngày 17 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo Lý Văn T và Hoàng Công B; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2023/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Lý Văn T, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1976 tại huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lý Văn N và bà Hứa Thị S (đã chết); có vợ: Hứa Thị Đ và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14-5-2023 đến ngày 19-5-2023 được tại ngoại; có mặt.
2. Hoàng Công B, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1990 tại huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Công Q và bà Lý Thị P (đều đã chết); có vợ: Nông Thị V và có 02 con sinh năm 2014 và 2018; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14-5-2023 đến ngày 19-5-2023 được tại ngoại; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Công B, Lý Văn T: Bà Hoàng Thị H, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm T tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 14 bị cáo khác và 06 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 30 phút ngày 13-5-2023, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Hoàng Công B, Lâm Thúy K, Hoàng Kim S, Vy Văn L, Hoàng Văn D, Mã Văn H, Hoàng Văn M, Hà Minh H, Chu Văn K, Hoàng Văn H, Dương Văn T, Lăng Văn T, Lý Xuân H, Hoàng Công T, Lành Thị H đang đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa tại nhà của Lý Văn T, địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn.
Kết quả điều tra đã xác định được:
Chiều ngày 13-5-2023, Hoàng Công B điện thoại rủ Hoàng Văn D và Hoàng Văn M đi đánh bạc nhưng Hoàng Văn D và Hoàng Văn M không nhận lời vì đang bận việc riêng. Khoảng 20 giờ ngày 13-5-2023, Hoàng Công B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12B1-X.09 chở Nông Văn T đến nhà Lý Văn T chơi rồi điện thoại rủ Hoàng Văn D, Vy Văn L đánh bạc đồng thời Hoàng Công B hỏi Lý Văn T cho đánh bạc tại nhà Lý Văn T và được Lý Văn T đồng ý.
Khi Hoàng Công B điện thoại rủ Hoàng Văn D đánh bạc thì Hoàng Văn D, Hoàng Văn H, Hoàng Văn M, Hoàng Kim S đang ở nhà Lâm Thúy K; Hoàng Văn D nói lại cho mọi người biết việc Hoàng Công B rủ đi đánh bạc và cả nhóm cùng đi đến nhà Lý Văn T vào khoảng 22 giờ cùng ngày, đi cùng còn có Vi Văn Q. Vy Văn L được Hoàng Công B điện thoại rủ đi đánh bạc nên điều khiển xe mô tô chở Mã Văn H đến nhà Lý Văn T; Hà Minh H điện thoại rủ Lâm Thúy K đi uống nước thì được biết Lâm Thúy K chuẩn bị đi vào nhà Lý Văn T để đánh bạc nên Hà Minh H điều khiển xe mô tô chở Lành Thị H đến nhà Lý Văn T.
Hoàng Công B rủ mọi người đánh bạc bằng hình thức chơi liêng. Những người tham gia đánh liêng gồm Hoàng Công B, Hoàng Văn D, Vy Văn L, Mã Văn H, Hoàng Kim S và Hà Minh H. Sau khi đánh liêng được khoảng 05 phút thì chuyển sang đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa.
Lý Văn T mang 01 tấm đệm ra để giữa nhà bảo mọi người trải ra để đánh bạc, lấy một miếng tre và dao để cho Mã Văn H làm quân vị. Dương Văn T đi xuống bếp nhà Lý Văn T lấy một bát sứ, một đĩa sứ màu trắng để sử dụng làm dụng cụ xóc đĩa. Vy Văn L sử dụng 02 lá bài để làm bảng vị. Hoàng Công B là người cầm cái xóc đĩa, mỗi ván các bị cáo đặt cược từ 10.000 đồng đến 300.000 đồng. Chỉ có Hoàng Công B đặt cược bảng vị 01 đến 02 ván thì không chơi nữa nên Vy Văn L đã bỏ bảng vị. Hoàng Công B cầm cái xóc đĩa đến 2 khoảng 23 giờ cùng ngày thì thua gần hết số tiền mang theo nên chuyển cho Hoàng Văn D cầm cái cho đến khi bị bắt quả tang.
Trong khoảng thời gian này, Dương Công T, Hoàng Công T, Chu Văn K, Lý Xuân H, Lăng Văn T đến nhà Lý Văn T chơi và thấy mọi người đang đánh bạc nên đã tham gia. Riêng Lý Văn T, Nông Văn T và Vy Văn Q không tham gia đánh bạc.
Khi đánh bạc được khoảng 10 phút, Lý Văn T yêu cầu người chơi phải nộp tiền hồ. Lý Văn T đã nhận tiền hồ của Chu Văn K, Hoàng Văn M, Hoàng Văn D, Hoàng Văn H, Hà Minh H, Mã Văn H, Dương Văn T, Lâm Thúy K, Lành Thị H và Vy Văn L; với tổng số tiền 1.600.000 đồng.
Khi bắt quả tang đã thu giữ trên chiếu bạc và trên người bị cáo tổng số tiền là 36.950.000 đồng, trong đó có 9.500.000 đồng thu giữ của bị cáo Hoàng Văn H và 2.900.000 đồng thu giữ của bị cáo Lý Văn T không liên quan đến việc đánh bạc; 1.600.000 đồng bị cáo Lý Văn T thu lợi bất chính (tiền hồ); tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 22.950.000 đồng, trong đó số tiền đánh bạc của từng bị cáo cụ thể như sau: Vy Văn L 5.300.000 đồng, Mã Văn H 3.400.000 đồng, Hoàng Văn M 3.300.000 đồng, Hoàng Công B 2.580.000 đồng, Hoàng Văn D sử dụng 2.050.000 đồng, Hà Minh H 1.800.000 đồng, Chu Văn K 1.200.000 đồng, Hoàng Văn H 1.100.000 đồng, Lý Xuân H 500.000 đồng, Lâm Thúy K 400.000 đồng, Hoàng Công T 400.000 đồng, Lăng Văn T 370.000 đồng, Dương Văn T 200.000 đồng, Lành Thị H 200.000 đồng, Hoàng Kim S 150.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2023/HS-ST ngày 29-11-2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lý Văn T 13 (mười ba) tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Công B 11 (mười một) tháng tù về tội Đánh bạc.
Bản án sơ thẩm còn xử phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án về tội Đánh bạc, trong đó có 02 bị cáo bị xử phạt tù giam, 09 bị cáo với mức phạt từ 08 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và tuyên phạt 03 bị cáo cải tạo không giam giữ; ngoài ra Bản án còn quyết định xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định, các bị cáo Lý Văn T và Hoàng Công B đều có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Hoàng Công B trình bày: Khi cùng Nông Văn T đến nhà Lý Văn T chơi, Hoàng Công B nảy sinh ý định đánh bạc nên đã điện thoại rủ Hoàng Văn D, Hoàng Văn M và Vy Văn L đồng thời xin Lý Văn T cho bị cáo đánh bạc tại nhà của Lý Văn T.
Bị cáo Lý Văn T trình bày: Bị cáo đang ở nhà thì Hoàng Công B và Nông Văn T đến chơi, một lúc sau có Vy Văn L, Hoàng Văn D cùng một số 3 người khác cùng đến; khi đang ngồi uống nước thì Hoàng Công B hỏi xin cho đánh bạc tại nhà của bị cáo nên bị cáo đồng ý và bị cáo đã được nhận 1.600.000 đồng do một số người đánh bạc góp đưa cho bị cáo.
Các bị cáo Lý Văn T, Hoàng Công B đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Các bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo và ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hoàng Công B về tội Đánh bạc là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Lý Văn T đã dùng nơi ở của mình để cho các bị cáo khác đánh bạc và thu tiền hồ, nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Gá bạc; cấp sơ thẩm truy tố xét xử bị cáo Lý Văn T về tội Tổ chức đánh bạc là chưa chính xác; đề nghị Hội đồng xét xử xác định lại tội danh đối với bị cáo Lý Văn T.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Lý Văn T đã nộp đơn có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện bị cáo đã hiến đất để làm đường giao thông, nộp quỹ xây dựng nông thôn mới; bị cáo Hoàng Công B có ông nội là ông Hoàng K được tặng Huân chương kháng chiến và bị cáo cũng tích cực ủng hộ các hoạt động thiện nguyện tại địa phương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà bị cáo Hoàng Công B và bị cáo Lý Văn T được hưởng.
Các bị cáo lần đầu phạm tội và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho các bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho các bị cáo nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn và trình bày: Các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình, là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; bị cáo Lý Văn T còn là người không biết chữ; vì vậy, sự hiểu biết pháp luật và nhận thức xã hội phần nào bị hạn chế. Các bị cáo đều nhất thời phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân đúng như Bản án sơ thẩm đã tuyên. Do đó, có căn cứ để xác định bị cáo Hoàng Công B và Lâm Thúy K, Hoàng Kim S, Vy Văn L, Hoàng Văn D, Mã Văn H, Hoàng Văn M, Hà Minh H, Chu Văn K, Hoàng Văn H, Dương Văn T, Lăng Văn T, Lý Xuân H, Hoàng 4 Công T, Lành Thị H đã đánh bạc tại nhà Lý Văn T từ khoảng 22 giờ ngày 13-5- 2023 đến 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị bắt quả tang; tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 22.950.000 đồng. Bị cáo Lý Văn T không tham gia đánh bạc, khi được Hoàng Công B hỏi ý kiến, Lý Văn T đã đồng ý cho các bị cáo đánh bạc tại nhà mình và đã được nhận 1.600.000 đồng tiền hồ.
[2] Theo Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị; xét thấy:
[3] Bị cáo Lý Văn T đã tạo điều kiện cho các bị cáo khác sử dụng đồ vật sẵn có tại gia đình mình để phục vụ cho việc đánh bạc (đệm, bát, đĩa…) và sử dụng nơi ở của mình để làm địa điểm đánh bạc nhằm mục đích thu tiền hồ. Xét về ý thức chủ quan, bị cáo không có mục đích Tổ chức cho các con bạc thực hiện việc đánh bạc mà hoàn toàn bị động khi được Hoàng Công B xin được đánh bạc tại nhà của mình. Do đó, hành vi của Lý Văn T phạm vào tội Gá bạc. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lý Văn T về tội Tổ chức đánh bạc là không chính xác. Do tội Tổ chức đánh bạc và Gá bạc đều được quy định cùng điều luật, nên việc xác định lại tội danh không làm bất lợi cho bị cáo.
[4] Đối với bị cáo Hoàng Công B: Nhằm thỏa mãn nhu cầu đánh bạc của bản thân, Hoàng Công B đã rủ các bị cáo khác cùng tham gia đánh bạc; tổng số tiền các đánh bạc là 22.950.000 đồng, trong đó bị cáo Hoàng Công B đã sử dụng 2.580.000 đồng để đánh bạc. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hoàng Công B về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.
[5] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo; mức hình phạt mà Bản án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo là phù hợp. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Lý Văn T cung cấp 01 đơn có xác nhận của chính quyền địa phương về việc bị cáo đã hiến đất để làm đường đi chung và chấp hành tốt pháp luật, nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú; bị cáo Hoàng Công B có ông nội là ông Hoàng K được tặng Huy chương kháng chiến và có xác nhận của chính quyền địa phương về việc chấp hành pháp luật, tích cực tham gia công tác thiện nguyện tại nơi cư trú. Mặt khác, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; bị cáo Lý Văn T là người không biết chữ. Vì vậy, việc sự hiểu biết về pháp luật của các bị cáo phần nào bị hạn chế. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà các bị cáo được hưởng.
[6] Xét thấy, các bị cáo bị phạt tù nhưng không quá 03 năm, đều là người có nhân thân tốt, chưa từng bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và ổn định; quá trình sinh sống tại địa 5 phương thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi trú; trong thời gian tại ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy các bị cáo có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
[7] Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B.
[8] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát và người bào chữa cho các bị cáo phù hợp với nhận định nêu trên và đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[10] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B về việc xin được hưởng án treo; Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2023/HS-ST ngày 29-11- 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn; cụ thể:
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 345 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lý Văn T phạm tội Gá bạc. Xử phạt bị cáo Lý Văn T 01 (một) năm 01 (một) tháng tù cho hưởng án treo về tội Gá bạc; thời gian thử thách là 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 05-4- 2024.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 65; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Tuyên bố bị cáo Hoàng Công B phạm tội Đánh bạc. Xử phạt bị cáo Hoàng Công B 11 (mười một) tháng tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc, thời gian thử thách là 01 (một) năm 10 (mười) tháng tù kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 05-4-2024.
3. Giao bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia 6 đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
4. Về án phí phúc thẩm: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Lý Văn T và bị cáo Hoàng Công B không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2024/HS-PT về tội gá bạc
Số hiệu: | 16/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về