Bản án 16/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau mở Pên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 248/2020/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thanh P, tên gọi khác: P Lé, sinh năm 1996; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số B, khóm X, phường Y, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở: Tạm trú khóm K, phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Tấn N và bà Trần Ngọc Nh; Anh, chị, em ruột: 01 người (bị cáo là con lớn nhất trong gia đình). Chung sống như vợ chồng với Thạch Lê Bảo N, sinh năm 2003; Con: có 02 người, lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2019.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/4/2020, đến ngày 26/4/2020 chuyển sang tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Pên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 08 giờ ngày 23/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau phối hợp với Công an phường 7, thành phố Cà Mau bắt quả tang Phan Thanh P đang có hành vi tàng trữ trái phép chất nghi là ma túy trên đoạn đường An Dương Vương thuộc khu vực khóm 3, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tang vật thu giữ gồm có:

- 02 (Hai) bọc nilon bên trong có tinh thể màu trắng bên trong chiếc yếm (đai) P dùng để địu con gái của P phía trước ngực (được niêm phong ký hiệu M.35/2020);

- 01 (Một) cái yếm (đai) địu em bé màu đỏ;

- 01 (Một) giấy Chứng minh nhân dân mang tên P;

- Tiền Việt Nam 5.000.000đ (Năm triệu đồng);

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ, đã qua sử dụng;

- 01 (Một) xe mô tô biển số 69R1-2211.

Đến 09 giờ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng trọ thuê tháng của Phan Thanh P và Thạch Lê Bảo N, sinh năm 2003(P và N sống chung như vợ chồng) thuộc khu vực khóm K, phường T, thành phố C đã phát hiện và tạm giữ các tang vật gồm:

- 03 (Ba) bọc nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng được giấu trong hộp nhựa có chữ COOLAIR (được niêm phong, ký hiệu M.36/2020);

- Tiền Việt Nam 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Cơ quan điều tra tiến hành thử nước tiểu để phát hiện nhanh chất ma túy đối với Phan Thanh P và Thạch Lê Bảo N, kết quả thể hiện P và N không sử dụng trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra, Phan Thanh P khai nhận: P bán trái phép chất ma túy được 02 lần, lần thứ nhất vào khoảng giữa tháng 4 năm 2020, nguồn ma túy có được là do mua của một người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) với giá 5.500.000đ, sau đó P mang về bán lại cho một người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) với giá 6.500.000đ, P hưởng lợi được 1.000.000đ. Lần thứ hai, vào khoảng 18 giờ ngày 22/4/2020, một người đàn ông tên Hoàng (không rõ họ tên thật và địa chỉ cụ thể) liên hệ với P qua số điện thoại của P (hiện P không nhớ số điện thoại) để hỏi mua loại ma túy đá (hai hộp mười), P báo giá là 12.000.000đ, Hoàng đồng ý và hẹn đến 08 giờ 30 phút ngày 23/4/2020 sẽ gặp tại khu vực cầu Gành Hào thuộc khóm 1, phường 8, thành phố Cà Mau để giao nhận ma túy. Sau đó, P liên hệ với người thanh niên mà P đã mua ma túy trước đó (P không nhớ rõ số điện thoại và đã xóa nhật ký sau khi liên hệ) để hỏi mua số ma túy đá với giá 11.000.000đ. Người thanh niên hẹn P đến đoạn đường Kinh Tỉnh đội thuộc phường 8, thành phố Cà Mau để giao nhận ma túy. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, P đến địa điểm đã hẹn để đưa tiền và nhận ma túy. Tại đây, P nhận được 02 (Hai) bọc nilon bên trong có chứa ma túy đá. Lúc này, P nảy sinh ý định trích ra một ít để bán lại cho người khác kiếm lời. Sau đó, P mang số ma túy trên về nhà và trích mỗi bọc một ít được thêm 03 (Ba) bọc ma túy nhỏ. P mang 03 bọc ma túy nhỏ bỏ vào trong hộp nhựa hiệu Coolair và cất giấu trong phòng trọ của P, còn 02 bọc ma túy lớn P cất giấu gần thùng rác phía trước phòng trọ. Đến sáng ngày 23/4/2020, P lấy 02 bọc ma túy lớn cất giấu vào trong yếm địu (đai) màu đỏ phía trước ngực con gái của P tên Thạch Phan Khánh B, sinh năm 2019 và điều khiển xe mô tô biển số 69R1-2211 địu theo cháu B mang ma túy đến địa điểm đã hẹn để bán cho Hoàng. Do chưa đến thời gian hẹn nên P điều khiển xe đi qua khu vực phường 7, thành phố Cà Mau để mua thức ăn. Khi đến đoạn đường An Dương Vương thuộc khóm 3, phường 7, thành phố Cà Mau thì bị bắt quả tang cùng với tang vật.

Theo bản Kết luận giám định số 96/KLGĐ-PC09 ngày 25/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau, kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 02 (hai) bọc nilon được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật của Công an thành phố Cà Mau, ký hiệu M.35/2020, thu giữ vào ngày 23/4/2020 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 19,9453gam, loại Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 03 (ba) bọc nilon được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật của Công an thành phố Cà Mau, ký hiệu M.36/2020, thu giữ vào ngày 23/4/2020 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,8639gam, loại Methamphetamine.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Hoàn lại đối tượng giám định được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu số 96/GĐH-PC09 ngày 25/4/2020, sau khi trích giám định và không lưu.

Quá trình điều tra, Phan Thanh P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 25 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố Phan Thanh P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Thanh P phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Đồng thời, đề nghị áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phan Thanh P từ 09 năm 06 tháng đến 10 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy mẫu vật được hoàn lại sau khi giám định và không lưu số 96/GĐH-PC09 ngày 25/4/2020; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ, đã qua sử dụng.

Tài sản còn lại thu giữ trong vụ án: Tiền Việt Nam 15.000.000đ; 01 giấy Chứng minh nhân dân mang tên P và 01 cái yếm địu (đai) em bé màu đỏ là tài sản cá nhân của P, không liên quan đến hành vi phạm tội của P. Ngày 02/5/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại do ông Phan Tấn N nhận. Đối với xe mô tô biển số 69R1- 2211 là tài sản cá nhân của bà Lê Thị Thu T. Bà T cho P mượn để sử dụng, việc P sử dụng xe này để làm phương tiện mua bán trái phép chất ma túy thì bà T không biết. Ngày 11/11/2020, Cơ quan điều tra đã trả xe mô tô 69R1-2211 cho bà T.

Tại Pên tòa bị cáo P thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như Cáo trạng đã nêu, Cáo trạng truy tố đối với bị cáo là đúng, không oan sai và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Pên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Quá trình điều tra và tại Pên tòa, bị cáo Phan Thanh P khai nhận: Vào lúc 08 giờ ngày 23/4/2020, tại khu vực khóm 3, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, P đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 20,8092gam loại Methamphetamine nhằm mục đích bán trái phép cho người khác để thu lợi bất chính thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét và nhiều chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên đã phạm vào tội “Mua bán trái pháp chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét thấy hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Phan Thanh P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Hành vi phạm tội của bị cáo không những vi phạm pháp luật hình sự mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và khối lượng chất ma túy mà bị cáo tàng trữ nhằm mục đích bán trái phép cho người khác để thu lợi bất chính nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại Pên tòa bị cáo bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Đối với tình tiết giảm nhẹ người thân có công với Nhà nước, tại phiên tòa bị cáo khai có ông nội của bị cáo là ông Phan Tấn H là là người có công, tuy nhiên quá trình điều tra và tại Pên tòa bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không xem xét là phù hợp.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật được hoàn lại sau khi giám định số 96/GĐH-PC09 ngày 25/4/2020, vật chứng này thuộc loại cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với điện thoại Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bị cáo sử dụng điện thoại này để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ, đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của P, không liên quan đến hành vi phạm tội của P. Nên xem xét trả lại cho bị cáo.

Đối với tiền Việt Nam 15.000.000đ; 01 giấy Chứng minh nhân dân tên P và 01 cái yếm (đai) địu em bé màu đỏ, là tài sản cá nhân của P, không liên quan đến việc phạm tội. Ngày 02/5/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại do ông Phan Tấn N nhận là phù hợp.

Đối với xe mô tô biển số 69R1-2211 là tài sản cá nhân của bà Lê Thị Thu T. Bà Thúy cho P mượn để sử dụng, việc P sử dụng xe này để làm phương tiện mua bán ma túy bà T không biết. Ngày 11/11/2020, Cơ quan điều tra đã lại cho bà T là phù hợp.

[5] Đối với hành vi bán trái phép chất ma túy trước đó của P, theo lời khai của P chưa đủ căn cứ để xử lý, giao Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, có căn cứ xử lý sau.

Đối với Thạch Lê Bảo N và Lê Thị Thu T không biết việc P mua bán trái phép chất ma túy vào ngày 23/4/2020 nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với N và T trong vụ án này là phù hợp.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho P và những người đã mua ma túy của P theo lời khai của P, do không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được. Do đó, giao Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ xử lý sau.

Đối với việc Phan Thanh P chung sống như vợ chồng với Thạch Lê Bảo N, hiện nay không rõ N đang ở đâu nên không đưa N đi giám định tuổi được. Do đó, chưa đủ căn cứ để xử lý đối với P về hành vi giao cấu với người dưới 16 tuổi. Giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ xử lý sau.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phan Thanh P phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên bố bị cáo Phan Thanh P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phan Thanh P 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (ngày 23/4/2020).

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật được hoàn lại sau khi giám định số 96/GĐH-PC09 ngày 25/4/2020; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ, đã qua sử dụng do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/01/2021.

Án phí hình sự sơ thẩm, buộc bị cáo Phan Thanh P phải nộp 200.000 đồng (chưa nộp).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;