Bản án 16/2021/HS-PT ngày 19/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK 

BẢN ÁN 16/2021/HS-PT NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 360/2020/TLPT-HS, ngày 04/12/2020 đối với bị cáo Dương Đình L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 329/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: DƯƠNG ĐÌNH L, sinh ngày 21/01/1995; tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn B, xã Bình T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Đình L và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại - Có mặt phiên tòa.

*Bị hại: Chị Trần Thị T, sinh năm 1992 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Số 30 Nay D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967 - Vắng mặt.

Trú tại: Số 25 đường Lê Đại H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Chị Nguyễn Ngọc Thanh T1 sinh năm 1988 - Vắng mặt. Trú tại: Số 107/38 đường Đào Duy T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Đình L là người không có nghề nghiệp nên đã chủ động dùng mạng xã hội Zalo, nhắn tin, tìm người kết bạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 21/7/2020, Dương Đình L sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6S, màu bạc lên mạng xã hội Zalo, nhắn tin, kết bạn với chị Trần Thị T là người bán hàng mỹ phẩm, nước hoa. Đến ngày 24/7/2020, L hẹn gặp và uống cà phê cùng với chị T, ở quán cà phê Hàn Thuyên (địa chỉ: Số 06 đường Trần Hưng Đạo, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột), thấy chị T sử dụng 01 chiếc điện thoại đi động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6 Plus, 64 GB, màu hồng (Iphone 6 Plus) nên L nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6 Plus của chị T. Sau đó, ngày 25/7/2020, L nói dối đặt mua nước hoa và hẹn chị T đến quán cà phê Classic, địa chỉ số 30 Ngô Quyền, phường Tân Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giao nhận nước hoa mục đích lừa chị T để đăng nhập tài khoản Gmail và tài khoản Icloud của L vào máy chị T để khi lừa lấy điện thoại mang đi bán không bị nghi ngờ tài sản do phạm tội mà có. Chị T tưởng thật nên đã cung cấp mật khẩu máy điện thoại, thoát tài khoản Icloud của mình ra, đưa máy điện thoại cho L sử dụng. Sau đó, L trả lại điện thoại và nói dối chị T là chị gái của L sẽ chuyển mã chuyển tiền vào tài khoản Gmail của L đang đăng nhập trên máy điện thoại của chị T nên chị T đừng thoát tài khoản Icloud và Gmail của L và rồi hẹn qua ngày hôm sau sẽ lấy nước hoa và giao tiền cho chị T.

Đến khoảng 14 giờ ngày 26/7/2020, L tiếp tục nhắn tin hẹn gặp chị T tại quán cà phê Hàn Thuyên, ở thành phố Buôn Ma Thuột để nhận hàng, trả tiền. Khi gặp chị T thì L nói dối chị T đưa điện thoại Iphone 6 Plus cho L gọi cho chị gái của L chuyển tiền cho chị T. Do tin tưởng L nên chị T đã giao điện thoại Iphone 6 Plus cho L thì L cầm điện thoại của chị T đứng dậy, đi ra ngoài, giả vờ gọi điện thoại rồi lợi dụng lúc chị T không để ý, L đã chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6 Plus của chị T và đón xe taxi đi về bến xe phía Nam, thành phố Buôn Ma Thuột. Sau đó, L thoát tài khoản Icloud đã đăng nhập trước đó, tháo vứt sim điện thoại của chị T đi (ngoài ra, trong ốp lưng điện thoại của chị T còn có số tiền 1.000.000 đồng và 02 tấm bùa, gồm: 01 tấm bùa bằng vải màu đỏ có in chữ “Lộc” và 01 tấm bùa màu vàng), L cất giữ 02 tấm bùa và 1.000.000 đồng, còn điện thoại của chị T, L mang đến tiệm cầm đồ Tín Nghĩa, ở 25 đường Lê Đại Hành, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, bán cho ông Nguyễn Văn N (là chủ tiệm), ông N không biết tài sản do L phạm tội mà có nên đồng ý mua với giá 2.600.000 đồng. Bán được điện thoại L đưa cho chị Nguyễn Ngọc Thanh T1 (là bạn gái L), số tiền 2.000.000 đồng và 01 tấm bùa bằng vải màu đỏ có in chữ “Lộc”, còn L giữ lại 01 tấm bùa và số tiền 1.600.000 đồng, L đã tiêu xài cá nhân hết 1.080.000 đồng. Còn chị T1 sau khi được L cho 2.000.000 đồng đã cùng L đi ăn uống hết 500.000 đồng. Đối với chị T, sau khi bị L lừa đảo lấy điện thoại đã đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, làm đơn tố cáo.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 157/KLĐG ngày 13/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự, thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6 Plus, dung lượng 64GB, màu hồng, số Imei 35328607200915, Sêri C38QG7EYGRX5, đã qua sử dụng, trị giá: 2.700.000 đồng.

Quá trình điều tra, Dương Đình L đã giao nộp 01 chiếc điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia loại 1208 vỏ nhựa màu đỏ, số Imel: 355930/04/130158/5; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6S, màu bạc, có số máy: MN1E2LL/A, số sêri: FFMT72WLHFLM, số Imei: 355680072313935, của L đang sử dụng; 01 tấm bùa màu vàng và số tiền 520.000 đồng, là tiền còn lại sau khi bán được điện thoại của chị T; Ông N đã tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6 Plus, dung lượng 64GB, màu hồng, số Imei 35328607200915, Sêri C38QG7EYGRX5 và 01 ốp lưng điện thoại màu vàng mua của L; Chị T1 đã tự nguyện giao nộp 01 tấm bùa bằng vải màu đỏ có in chữ “Lộc” và số tiền 1.500.000 đồng mà L đã đưa cho chị T1, để phục vụ công tác điều tra.

Ngoài ra, Dương Đình L đã tác động gia đình đã bồi thường cho chị T, số tiền 1.000.000 đồng (tiền L lấy từ trong ốp lưng điện thoại của chị T); Bồi thường lại cho ông N, số tiền 2.600.000 đồng. Chị T và ông N đã làm đơn bãi, xin giảm nhẹ hình phạt và không yêu cầu L phải bồi thường gì thêm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 329/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Dương Đình L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Đình L 01 (một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 14/10/2020 bị cáo Dương Đình L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Dương Đình L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ và đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát cho rằng mức hình phạt 01 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ bị cáo có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn nên cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo Dương Đình L với mức hình phạt từ 06 đến 09 tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 26/7/2020, tại quán cà phê Hàn Thuyên (số 06 đường Trần Hưng Đạo, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, Dương Đình L đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của chị Trần Thị T gồm: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus, trị giá 2.700.000 đồng và số tiền 1.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.700.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Dương Đình L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Đối với kháng cáo của bị cáo Dương Đình L, Hội đồng xét xử xét thấy: Mức hình phạt 01 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Dương Đình L là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Bởi lẽ, bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo có nhân thân tốt, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, Chị T và ông N đã làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận một phần đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Dương Đình L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự

- Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Dương Đình L

– Sửa Bản án sơ thẩm số số 329/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Đình L 07 (bảy) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày thi hành án.

[2]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 21/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo Dương Đình L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2021/HS-PT ngày 19/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:16/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;