Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 27/09/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa xét xử công khai vụ án Hôn nhân – gia đình sơ thẩm thụ lý số: 35/2021/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXX-ST ngày 25 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Cao Thị N, sinh năm 1997, có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Bắc Sông G, xã KTr, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

Chỗ ở hiện nay: Tổ 3 thị trấn K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

2. Bị đơn: Ông Cao Văn P, sinh năm 1995, vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Bắc Sông G, xã KTr, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/5/2021, bản tự khai ngày 20/6/2021 nguyên đơn bà Cao Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Cao Văn P kết hôn năm 2014 đến năm 2016 đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã KTr. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại thôn Bắc Sông G, xã KTr, huyện K và có 01 con chung Cao Thị Minh T, sinh ngày 29/7/2016. Quá trình sống chung giữa hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm về mọi mặt, không có tiếng nói chung trong mọi việc của gia đình, ông P thường xuyên ăn nhậu không chăm lo cho gia đình và có hành vi bạo lực đối với bà. Từ những mâu thuẫn vợ chồng không hàn gắn được nên ông bà không còn sống chung từ năm 2018 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Cao Văn P.

Về con chung: Sau khi ly hôn bà N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà N khai không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Cao Văn P: Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh đã tiến hành thực hiện các thủ tục triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông P cố tình trốn tránh không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị N nên Tòa án đưa vụ án ra giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định. Đối với bị đơn ông Cao Văn P đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông cố tình trốn tránh không có mặt tại phiên tòa nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình do đó tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông P là đúng theo quy định của pháp luật.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.

Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn; Về con chung: Đề nghị HĐXX giao con chung Cao Thị Minh T, sinh ngày 29/7/2016 cho nguyên đơn nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cao Thị N khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn bà cao Thị N vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Cao Văn P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt, niêm yết tại địa phương và nơi cư trú, do đó Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng với quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Cao Thị N và ông Cao Văn P kết hôn năm 2014, đến năm 2016 đăng ký kết hôn tại UBND xã KTr và đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 18/2016, ngày 12/10/2016. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà N và ông P là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, giữa bà N và ông P thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cãi, do ông P không lo làm ăn chăm lo cho gia đình và có hành vi bạo lực đối với bà. Bà N đã nhiều lần bỏ qua cho ông P cơ hội sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông P vẫn không thay đổi. Từ những mâu thuẫn vợ chồng không hàn gắn được bà N chuyển về sống cùng gia đình, hai vợ chồng không còn sống chung từ năm 2018 đến nay. Theo kết quả xác minh tại địa phương ông bà đang sinh sống cho thấy quá trình sống chung bà N và ông P phát sinh mâu thuẫn, hiện tại hai ông bà không còn sống chung với nhau. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, việc chăm sóc, quan tâm lẫn nhau không còn, do đó mâu thuẫn giữa bà N và ông P đã đến mức trầm trọng nên cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Thực tế bà N và ông P cũng không còn sống chung từ năm 2018 cho đến nay. Vì vậy có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Cao Thị N đối với ông Cao Văn P.

[3] Về con chung: Bà Cao Thị N và ông Cao Văn P có 01 con chung Cao Thị Minh T, sinh ngày 29/7/2016. Trong quá trình giải quyết vụ án bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tuổi trưởng thành, bà không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Kể từ thời điểm bà Cao Thị N và ông Cao Văn P không còn sống chung, cháu T đang do bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển tốt cả về tinh thần lẫn thể chất. Nguyên đơn có đủ điều kiện nuôi con và thực tế đang trực tiếp nuôi con chung. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Cao Thị Minh T, sinh ngày 29/7/2016 cho bà Cao Thị N trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình nuôi con nếu gặp khó khăn bà N có quyền làm đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo quyền lợi cho con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cao Thị N khai không có nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Bà Cao Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Cao Thị N được ly hôn với ông Cao Văn P.

2. Về con chung: Giao con chung Cao Thị Minh T, sinh ngày 29/7/2016 cho bà Cao Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà Cao Thị N không yêu cầu ông Cao Văn P cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cao Thị N khai không có nên HĐXX không xét.

4. Về án phí: Bà Cao Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tại biên lai số AA/2021/0005766 ngày 14 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Khánh Vĩnh. Như vậy bà Cao Thị N đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Bà Cao Thị N, ông Cao Văn P có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 27/09/2021 về ly hôn

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;