Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23/04/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 292/TLST- HNGĐ ngày 19/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXX- HNGĐ ngày 19/3/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 12/2021/QĐ-HPT ngày 06/4/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lương Thị C, sinh năm 1990 Địa chỉ: phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Hà N.

Nghề nghiệp: Công nhân.

Bị đơn: Anh Phạm Ngọc N, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã X, huyện N, tỉnh Ninh Bình Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Chị C đề nghị xin xử vắng mặt. Anh N vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15/9/2020, bản tự khai chị C trình bày như sau: chị và anh N kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 15/6/2010 tại UBND xã X, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Sau khi cưới anh, chị chung sống tại xã X cho đến nay. Vợ chồng anh, chị sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh N hay đánh chửi chị C dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn cãi chửi nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt từ năm 2015 chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Đ, xã X, huyện N sống sau đó chuyển đến xã D, huyện D, tỉnh Hà N cùng với 02 con nhỏ để sinh sống, hiện nay chị và anh N đã ly thân. Nay chị C xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống cùng nhau nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Ngọc N.

Về con chung: Chị C và anh N có 02 con chung là cháu Phạm Xuân B, sinh ngày 14/10/2010 và Phạm Văn T, sinh ngày 06/4/2014. Chị C đề nghị được nuôi cả hai cháu, không đề nghị anh N phải cấp dưỡng.

Về tài sản, công nợ chung, quyền sử dụng đất: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của bị đơn anh Phạm Ngọc N: Anh N nhận được thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập của Tòa án, tuy nhiên anh N không lên làm việc cũng không có bản tự khai nộp tòa án thể hiện quan điểm của mình. Bà Bùi Thị T là mẹ đẻ anh N tại lời khai ngày 02/3/2021 bà T xác định, gia đình đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh N, bà đã thông báo cho anh N biết chị C xin ly hôn, anh N không muốn ly hôn, nếu ly hôn anh N muốn nuôi 02 con, về cấp dưỡng anh N không thể hiện quan điểm của mình.

- Tại phiên tòa: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật trong thời hạn chuẩn bị xét xử của Thẩm phán và Thư ký: Thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

- Tại phiên toà hôm nay Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của BLTTDS 2015.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các Điều 5, 147, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5, Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTCQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí.

Xử: Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Lương Thị C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Lương Thị C và anh Phạm Ngọc N.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cho chị Lương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Phạm Xuân B, sinh ngày 14/10/2010 và Phạm Xuân T sinh ngày 06/4/2014 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Án phí ly hôn: Chị C phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” giữa chị Lương Thị C và anh Phạm Ngọc N. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

1. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị C, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chị C đã nhận và chấp hành đầy đủ, anh N đã biết được việc chị C xin ly hôn cũng như việc Tòa án gửi các văn bản tố tụng cho anh và được mẹ anh nhận và thông báo cho anh nhưng không chấp hành đầy đủ. Đến ngày 19/3/2021 Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị C và anh N kết hôn có đăng kí kết hôn vào ngày 15/6/2010 tại UBND xã X, huyện N, tỉnh Ninh Bình là hôn nhân hợp pháp Sau khi cưới anh, chị chung sống tại xã X. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn cãi chửi nhau, chị C và anh N hiện đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay hai bên cũng không có biện pháp tích cực nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét yêu cầu khởi kiện của chị C xin ly hôn anh N là có căn cứ nên chấp nhận. Xử ly hôn giữa chị C và anh N là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật để hai người ổn định cuộc sống . (Áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Chị C và anh N có 02 cháu là Phạm Xuân B, sinh ngày 14/10/2010 và Phạm Xuân T sinh ngày 06/4/2014. Hiện nay các cháu đang ở với chị C tại lời khai ngày 23/11/2020 cả 2 cháu đều có nguyện vọng ở với mẹ. Đối với anh N, anh đi làm xa nên thường xuyên không có mặt tại đại phương, trên thực tế từ năm 2016 anh cũng không quan tâm gì đến các con của mình. Vì vậy không thể giao con chung cho anh N nuôi và chăm sóc được. Đối với chị C đề nghị của chị là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật cần giao cả 2 con chung Phạm Xuân B và Phạm Xuân T cho chị C tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Về cấp dưỡng nuôi con, chị C không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung xét là sự tự nguyện của chị C nên cần chấp nhận.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị C không có yêu cầu nên không giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Lương Thị C phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83,84 Luật Hôn nhân và gia đình Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Lương Thị C và anh Phạm Ngọc N.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cho chị Lương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung là Phạm Xuân B, sinh ngày 14/10/2010 và Phạm Xuân T sinh ngày 06/4/2014 cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị C.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị C phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số AA/2018/0000709 ngày 19/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, chị C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;