Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 252/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Kim B, sinh năm 1991;

Địa chỉ: Số nhà 276 ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng Đ, sinh năm 1989;

Địa chỉ: Số nhà 025 khóm L, phường K, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

(Nguyên đơn vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, Bị đơn vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 27/9/2019 (BL 01), nguyên đơn là chị Huỳnh Kim B trình bày:

Năm 2015, chị B kết hôn với anh Đ và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/01/2018.

Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng đi làm công nhân và chung sống tại tỉnh Long An. Cuộc sống chung hạnh phúc được thời gian đầu, chị B với anh Đ đã có 01 con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Thảo N (Nữ), sinh ngày 01/02/2018. Do bất đồng quan điểm làm phát sinh mâu thuẫn, anh Đ có biểu hiện không chung thủy, vợ chồng thường xảy ra cãi vã nên không còn hạnh phúc nữa. Từ đầu năm 2018, chị B đã trở về sống tại số nhà 276 ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang; anh Đ thì trở về sinh sống tại số nhà 025 khóm L, phường K, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; vợ chồng không còn sống chung, không còn liên lạc gì với nhau. Nay, chị B yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Đ.

Về con chung: Chị B yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Huỳnh Thảo N, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị B với anh Đ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Chứng cứ do chị B giao nộp là Giấy chứng nhận kết hôn; bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu N (BL 02-08).

- Đối với bị đơn Nguyễn Hoàng Đ: Dù được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, tại Thông báo đã thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của chị B nhưng anh Đ không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến của mình và vắng mặt không có lý do trong các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp trên cho anh Đ và đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 08/02/2021, bị đơn Đ vẫn vắng mặt và không giao nộp tài liệu, chứng cứ gì nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được là Biên bản xác minh nơi cư trú của bị đơn, tình trạng hôn nhân, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, sức khỏe, tình hình phát triển của cháu Nguyễn Huỳnh Thảo N (BL 30).

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp; thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng pháp luật; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đương sự đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị B, cho chị B ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Đ; giao cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh Đ không phải cấp dưỡng cho con; không xem xét về tài sản và nợ chung do đương sự không yêu cầu; quyết định về án phí theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Chị Kim B khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Đ và giải quyết quyền nuôi con chung. Yêu cầu của chị B được pháp luật điều chỉnh tại các Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Nguyễn Hoàng Đ đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vụ án vắng mặt, vì trở ngại trong việc di chuyển do tình hình dịch bệnh Covid - 19. Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a và điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt 02 đương sự.

[2] Về nội dung giải quyết:

- Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn; bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu Thảo N cũng như việc không phản đối của anh Đ và kết quả xác minh của Tòa án; đối chiếu với quy định tại điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của chị B về việc kết hôn với anh Đ, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/01/2018 và vợ chồng đã có 01 con chung là sự thật. Vì vậy, giữa chị B và anh Đ đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, quy định tại Khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, từ đầu năm 2018 đến nay, dù không có thỏa thuận khác và cũng không vì yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội; chỉ vì mâu thuẫn mà chị B và anh Đ không còn chung sống với nhau, không cùng nhau thực hiện công việc gia đình.

Như vậy, chị B và anh Đ đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng được quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình; vợ chồng không còn thương yêu, tôn trọng lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, cần áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết cho chị B được ly hôn với anh Đ.

- Thời điểm xét xử vụ án, cháu Nguyễn Huỳnh Thảo N mới được 36 tháng 22 ngày tuổi, Ủy ban nhân dân phường K khẳng định không nhận được bất cứ yêu cầu nào về việc hỗ trợ, bảo vệ, chăm sóc cho cháu (BL 30); đồng thời, chị B yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con.

Xét, chị B trực tiếp một mình nuôi dưỡng cháu N từ khi mới sinh cháu đến nay, đã thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền của cha mẹ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt được tốt hơn và tránh sự xáo trộn nề nếp sinh hoạt, môi trường cuộc sống của cháu N thì cần căn cứ Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình giao cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng con chung; ghi nhận ý chí tự nguyện của chị B, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con.

- Nguyên đơn Huỳnh Kim B khẳng định tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị Huỳnh Kim B phải chịu 300.000 đồng, theo điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV, Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 143, Khoản 3 Điều 144, Khoản 4 Điều 147, điểm a và điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Huỳnh Kim B được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Đ.

2. Về con chung:

Chấp nhận yêu cầu trực tiếp nuôi con của chị Huỳnh Kim B. Giao cho chị B được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Tảo N (Nữ), sinh ngày 01/02/2018. Ghi nhận ý chí tự nguyện của chị B, anh Đ không phải cấp dưỡng cho cháu N. Trong thời gian chị B nuôi con, không ai được quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

Vì quyền lợi về mọi mặt của cháu N, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nếu có căn cứ hợp pháp.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khẳng định tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Huỳnh Kim B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo Biên lai số 0000571 ngày 27/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, chị B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Các đương sự có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;