Bản án 16/2020/HSST ngày 26/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 16/2020/HSST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Hunh Văn V, sinh ngày 25 tháng 4 năm 1995, tại Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã X, huyện Y, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn L và bà Huỳnh Thị Thu T; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/9/2019 tại nhà tạm giữ Công an Quận 1. (có mặt)

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trương Văn A, sinh năm: 1989; chỗ ở hiện nay: 304/85/6 Bùi Đình Túy, phường X, quận Y, Thành phố H. (vắng mặt)

- Bà Phan Thị Yến P, sinh năm: 1977; chỗ ở hiện nay: 55 Nguyễn Văn Của, phường X, Quận Y, Thành phố H. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 20 giờ ngày 27/9/2019, Huỳnh Văn V đến khu vực phía trước cổng chính khu du lịch văn hóa Suối Tiên, Quận 9 mua 01 gói ma túy tổng hợp của một người thanh niên tên Nhóc không rõ lai lịch với giá 800.000 đồng, V cất giữ số ma túy trong túi quần để sử dụng. Ngày 28/9/2019, Trương Văn A gọi điện rủ V đi huyện Bến Lức, tỉnh Long An chơi và điều khiển xe ôtô biển số 51D-232.61 đến đón V tại trước nhà thờ Cao Thái, phường X, Quận Y. Khi vào đường dẫn cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương, huyện Bình Chánh, A dừng xe xuống đi mua nước uống. Lúc này V lấy gói ma túy tổng hợp từ trong túi quần đã mua trước đó ra kẹp vào giữa bộ giấy tờ xe có sẵn ở trong xe ôtô và bỏ vào trong hộc kéo dưới phần taplô, phía trước bên phải vị trí ghế ngồi của V. Sau đó A quay lại rồi cả hai tiếp tục đến huyện Bến Lức, tỉnh Long An chơi. Khoảng 16 giờ ngày 28/9/2019, trên đường về khi xe lưu thông đến giao lộ Nguyễn Hữu Cảnh – Tôn Đức Thắng, Quận 1 do vi phạm giao thông nên bị ông Phan Công T và ông Nguyễn Anh T là cán bộ thuộc Đội Cảnh sát giao thông Bến Thành, thuộc phòng PC08 - Công an Thành phố Hồ Chí Minh điều tiết giao thông tại giao lộ yêu cầu dừng xe để xử lý nhưng A không chấp hành hiệu lệnh mà tiếp tục điều khiển xe ôtô chạy đến giao lộ Nguyễn Bỉnh Khiêm – Nguyễn Hữu Cảnh, Quận 1 thì xe bị chặn lại để kiểm tra. Lúc này, A xuống xe xuất trình các giấy tờ có liên quan là Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện ôtô, giấy đăng ký xe ôtô để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, ông T phát hiện giữa các giấy tờ A xuất trình có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, nghi vấn là ma túy nên ông T thu giữ. Lúc này, V xuống xe thấy ông T hỏi A về nguồn gốc gói nylon là ma túy trong bộ giấy tờ xe thì V bỏ chạy về hướng đường Tôn Đức Thắng, Quận 1 được khoảng 200 mét thì bị ông T đuổi theo bắt giữ và cùng ông T đưa V quay lại vị trí xe vi phạm, lúc này A đã bỏ đi. Ông T được ông Đỗ Văn H người đi đường chứng kiến sự việc đã hỗ trợ ông T xác định A đi về hướng đường Nguyễn Bình Khiêm, Quận 1 nên đuổi theo đưa A quay lại vị trí xe vi phạm và cùng ông T thu giữ vật chứng, bàn giao A và V cho Công an phường Bến Nghé, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo bản kết luận giám định số: 1843/KLGĐ-H ngày 07/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh Văn V, người chứng kiến Trương Văn A và hình dấu Công an phường Bến Nghé, Quận 1 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2050g, loại Methamphetamine. Bản cáo trạng số: 17/CT-VKSQ1 ngày 08/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh tụng: Sau khi kiểm tra đầy đủ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các tình tiết khác của vụ án, bị cáo đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù, phạt tiền bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1843/19Q1 chứa chất ma túy bên trong có 1,2050g, loại Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định).

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4, số Imei: 012938007474940, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 khóa còng số 8, số E 112 – 011.

- 01 xe ôtô hiệu Nissan, loại Navarael, biển số 51D-232.61 và một số giấy tờ xe là giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô biển số 51D-232.61 tên Phan Thị Yến P, giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện và giấy chứng nhận kiểm định của xe ôtô biển số 51D-232.61, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Phan Thị Yến P nên không xét.

Tại phiên tòa, bị cáo V đã khai nhận hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng gì và nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản tường trình, tờ tự khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định,… nên có căn cứ để kết luận bị cáo V đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng là 1,2050g, ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với quyết tâm cao. Bị cáo đủ nhận thức để biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì muốn thỏa mãn động cơ cá nhân nên bất chấp xem thường pháp luật cố tình phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền về các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án tiền sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.

[6]. Đối với Trương Văn A do không biết nguồn gốc số ma túy thu giữ, không biết V cất giấu số ma túy trong bộ giấy tờ ở hộc xe ôtô. Quá trình điều tra lời khai của A phù hợp với lời khai của V nên không có căn cứ xác định A là đồng phạm với V trong vụ án nên Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt hành chính là có cơ sở (thể hiện ở các bút lục 46 – 53).

[7]. Đối với người thanh niên tên Nhóc bán ma túy cho bị cáo V, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan điều tra Công an Quận 1 tiếp tục xác minh làm rõ có cơ sở xử lý sau.

[8]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 1843/19Q1 chứa chất ma túy bên trong có 1,2050g, loại Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định) cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 khóa còng số 8, số E 112 – 011 thu giữ của ông A là vật cấm sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đi với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4, số Imei: 012938007474940 thu giữ của bị cáo V, xét thấy không liên quan đến vụ án nên cần xem xét để trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

- Đối với 01 xe ôtô hiệu Nissan, loại Navarael, biển số 51D-232.61 và một số giấy tờ xe là giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô biển số 51D-232.61 tên Phan Thị Yến P, giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện và giấy chứng nhận kiểm định của xe ôtô biển số 51D-232.61. Qua xác minh, xe do bà Phan Thị Yến P, sinh năm: 1977, trú tại 55 Nguyễn Văn Của, Phường X, Quận Y, Thành phố H là chị dâu của Trương Văn A đứng tên chủ sở hữu. Ngày 28/9/2019, A mượn xe của bà P chở V đi Long An chơi, việc V cất giữ ma túy trên xe bà P không biết. Xét thấy không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Phan Thị Yến P nên không xem xét.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy: Tuyên bố: Huỳnh Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; phạt bị cáo Huỳnh Văn V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2019. Buộc bị cáo Huỳnh Văn V phải nộp phạt 5.000.000đ (năm triệu đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.

Việc bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

khon 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1843/19Q1 chứa chất ma túy.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 345/19-PNK ngày 04/12/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Tịch thu tiêu hủy 01 (một) khóa còng số 8, số E 112 – 011.

(Theo Phiếu nhập kho đồ vật, tài liệu số: 01-20/PHK ngày 20/12/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Trả lại bị cáo Huỳnh Văn V 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 4, số Imei: 012938007474940, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 331/19-PNK ngày 20/11/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Huỳnh Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Đi với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự; trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo Huỳnh Văn V có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2020/HSST ngày 26/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;