Bản án 16/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MS - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Giàng A S. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 09/03/1974 tại huyện MS, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản LH, xã PC, huyện MS, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Không; Giới tính: Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A L, đã chết và bà: Sồng Thị S, đã chết; Bị cáo có vợ là Sồng Thị D, sinh năm 1970; Bị cáo có 06 con, con lớn 31 tuổi, con nhỏ 06 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số: 43/HSST ngày 29.9.2000 của Tòa án nhân dân huyện SM, tỉnh Sơn La xử phạt Giàng A S 28 tháng tù về tội về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bản án hình sự số: 22/HSST ngày 30.3.2004 của Tòa án nhân dân huyện MS xử phạt Giàng A S 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Bích L - Luật sư Cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Sồng Thị D, sinh năm 1970. Trú quán: Bản Lọng Hỏm, xã PC, huyện MS, tỉnh Sơn La. có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23.6.2020, Giàng A S đi mua thuốc trừ cỏ tại thị trấn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La thì gặp một người phụ nữ, trong khi nói chuyện, S biết người phụ nữ có heroine bán nên hỏi mua 11.000.000VNĐ heroine. Người phụ nữ đồng ý và hẹn S ngày 25.6.2020 đến khu vực cầu Cứng thuộc thị trấn huyện Sông Mã để giao heroine. Khoảng 15 giờ ngày 25.6.2020, S mangtheo 11.000.000VNĐ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HETECH biển kiểm soát 26B2- 049.55 đi từ nhà theo đường tỉnh lộ 113 đến địa điểm hẹn. Tại đây, S đưa cho người phụ nữ 11.000.000VNĐ và người phụ nữ đưa cho S 01 gói nilon màu đen đưa cho S. Sau đó S cất giấu gói heroine vào cạp quần trước đang mặc và điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến khu vực bản NTM, xã PC, MS thì bị Tổ công tác Công an xã PC, MS kiểm tra thu giữ tại cạp quần trước S đang mặc 01 gói nilon màu đen, bên trong chứa chất bột nén màu trắng, S khai đó là heroine. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng, ngoài ra còn tạm giữ của S 01 điện thoại di động hiệu XIAOME REDMI 5A màu vàng kèm 02 sim điện thoại, 01 xe mô tô hiệu DETECH biển kiểm soát 26B2- 049.44.

Ngày 26.6.2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện MS phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mâu giám định đối với vật chứng thu giữ của Giàng A S, kết quả: Khối lượng chất bột nén màu trắng là 37,41gam, lấy 0,68 gam làm mâu giám định ký hiệu M.

Tại bản kết luận giám định số 1073/KLMT ngày 29/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy; loại heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,68gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 37,41 gam; loại heroine.” Bản cáo trạng số 111/CT-VKSMS ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MS đã truy tố bị cáo Giàng A S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Giàng A S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Giàng A S từ 10 năm đến 10 năm 6 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư do Công an huyện MS phát hành được dán kín bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh băng dính, mảnh giấy bạc, mảnh nilon gói ma túy ban dầu và vật chứng nghi là 36,73 gam heroine.

Trả lại cho Giàng A S 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI 5A màu vàng kèm 02 sim điện thoại.

Trả cho Sồng Thị D 01 xe mô tô hiệu DETECH biển kiểm soát 26B2- 049.55.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Miễn án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Bích L nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, xử lý vật chứng, phần án phí. Tuy nhiên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS vì bị cáo có trình độ hiểu biết còn hạn chế, sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A S 10 năm tù.

Bị cáo Giàng A S tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Giàng A S đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 30 phút ngày 25.6.2020 của Tổ công tác Công an xã PC, huyện MS; biên bản mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, trích mâu giám định và niêm phong lại vật chứng, kết luận giám định về ma túy số 1073/KLMT ngày 29/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn. Tại phiên tòa không phát sinh chứng cứ mới.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận: Ngày 25.6.2020, Giàng A S đã mua 37,41 gam heroine về sử dụng và đã bị Tổ công tác Công an xã PC, huyện MS phát hiện thu giữ, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khăng định số ma túy bị cáo mua là để sử dụng, không có mục đích nào khác vì bị cáo nghiện ma túy. Do đó Viện kiểm sát huyện MS truy tố tại Bản cáo trạng số: 111/CT-VKSMS ngày 10.11.2020 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[2] Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do bị cáo không chịu tu dưỡng nên đã phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh mất an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên về nhân thân, tại Bản án số: 43/HSST ngày 29.9.2000 của Tòa án nhân dân huyện SM, tỉnh Sơn La xử phạt Giàng A S 28 tháng tù về tội về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bản án hình sự số: 22/HSST ngày 30.3.2004 của Tòa án nhân dân huyện MS xử phạt Giàng A S 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định, bản thân bị cáo không có tài sản riêng, sống trong vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc hộ nghèo, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự giải quyết như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư do Công an huyện MS phát hành được dán kín bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh băng dính, mảnh giấy bạc, mảnh nilon gói ma túy ban đầu và vật chứng còn lại là 36,73 gam heroine ký hiệu T.

Trả lại cho Giàng A S 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI 5A màu vàng, máy đã qua sử dụng.

Đối với 01 xe mô tô hiệu DETECH biển kiểm soát 26B2- 049.55, tại phiên tòa xác định là tài sản chung của gia đình bị cáo, người có quyền lợi liên quan bà Sồng Thị D có yêu cầu xin lại xe để làm phương tiện phục vụ cho cuộc sống gia đình, do đó cần chấp nhận yêu cầu này.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện MS, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện MS, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của một người phụ nữ dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ tại khu vực thị trấn huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Do việc mua bán không có người tham gia, chứng kiến. Ngoài lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, mở rộng vụ án nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo và đang sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa có đề nghị được miễn án phí do đó cần miễn án phí cho bị cáo theo quy định chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Giàng A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng A S 10 (Mười) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 25/6/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư do Công an huyện MS phát hành được dán kín bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh băng dính, mảnh giấy bạc, mảnh nilon gói ma túy ban đầu và vật chứng còn lại là 36,73 gam heroine có ký hiệu T.

Trả lại cho Giàng A S 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI REDMI 5A màu vàng, máy đã qua sử dụng.

Trả cho Sồng Thị D 01 xe mô tô hiệu DETECH màu đỏ - đen, gắn BKS:

26B2-049.55, có cùng số khung và số máy 180061, xe đã qua sử dụng cũ.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;